Chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa, năm 1789
2:43 AM, 27/12/2011,
Views: 21471 | By
VietnamDefence -
Đánh cho nó chích luân bất phản / Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn / Đánh cho sử
tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ.
CHƯƠNG VI: CHIẾN THẮNG NGỌC HỒI - ĐỐNG ĐA
NGÀY 5 TẾT KỶ DẬU TỨC NGÀY 30-1-1789
Đánh cho nó chích luân bất phản,
Đánh cho nó phiến giáp hoàn.
Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ.
(Quang Trung - Lời
hiểu dụ tướng sĩ)
Cuối năm Mậu Thân (1788) nhân dân Thăng Long và nhiều vùng ở Bắc Hà đang trải
qua những ngày tháng cực kỳ đau thương và tủi nhục, căm hờn và phẫn nộ (Nói
chung trong tập sách này, chúng tôi đổi ngày âm lịch ra dương lịch và trình bày
theo ngày, tháng dương lịch, khi cần thiết ghi chú thêm ngày tháng âm lịch.
Nhưng riêng trận Ngọc Hồi - Đống Đa xảy ra trong những ngày Tết Nguyên đán.
Điếu đó có ý nghĩa quan trọng vế thời cơ và đã khắc sâu vào ký ức của nhân dân,
nằm trong truyền thống mùa Xuân chiến thắng của dân tộc. Vì vậy trong chương
này, chúng tôi trình bày theo ngày tháng âm lịch, có ghi chú ngày tháng dương lịch).
Lợi dụng hành động “rước voi về giày mồ” của bè lũ phong kiến
phản động Lê Chiêu Thống, quân Thanh đã tràn sang xâm chiếm nước ta. Một lực
lượng viễn chinh lớn gồm 29 vạn quân chiến đấu và quân phục dịch ào ạt vượt qua
biên giới.
Chính sử nhà Thanh như Đại Thanh lịch triều thực lục Đông Hoa
toàn lục... đều cố tình hạ thấp số quân Thanh sang xâm lược nước ta để giảm bớt
thất bại nhục nhã của triều Thanh. Ví dụ Đại Thanh lịch triều thực lục chép số
quân Thanh cả thảy chỉ 15.000 (q. 1.314 và q. 1.317). Rõ ràng con số đó quá xa
sự thật. Chính những đoạn ghi chép trong bộ sử biên niên đồ sộ đó của nhà Thanh
(gồm 1.220 quyển) cũng bộc lộ nhiều điểm mâu thuẫn và thiếu sót. Không có lý do
gì, nếu đạo quân 15.000 người mà nhà Thanh phải cử tổng đốc Lưỡng Quảng là Tôn
Sĩ Nghị, một viên đại thần vào cỡ thượng thư của triều đình, làm thống soái và
dưới trướng của Tôn Sĩ Nghị có nhiều võ quan cao cấp đến thế. Cũng không có lý
do gì, nếu quân số chỉ có 15.000 người mà nhà Thanh phải cử những đại thần như
Phúc An Khang, tổng đốc Vân Quý (Vân Nam, Quý Châu) là Phú Cương lo liệu quân
lương và số lương thực cấp phát buổi đầu theo yêu cầu của Tôn Sĩ Nghị đã đến 9
vạn thạch. Riêng chi phí cho đạo quân xuất phát từ Quảng Tây, số bạc của kho
Quảng Tây không đủ, nhà Thanh phải sai Bộ hộ lấy 50 vạn lạng bạc của các tỉnh
lân cận bổ sung thêm. Số quân 15.000 là mới tính riêng số quân tinh nhuệ gồm bộ
binh, kỵ binh thuộc đạo quân của Tôn Sĩ Nghị và Ô Đại Kinh điều động từ quân
chủ lực các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Quý Châu, hoàn toàn chưa kể
đạo quân của Sầm Nghi Đống, các lực lượng gọi là “thổ binh”, “nghĩa dũng” mới
tổ chức thêm và lực lượng dân phu phục dịch.
Theo bài hịch của Tôn Sĩ Nghị thì tổng số quân Thanh là 50 vạn
(Hoàng Lê nhất thống chí, Nhà xuất bản văn học, Hà Nội, 1964, tr.336). Con số
đó có thể có phần khoa trương và bao gồm cả quân chiến đấu lẫn dân phu. Theo
điều thứ 8 trong quân luật của Tôn Sĩ Nghị thì “mỗi người lính được cấp một tên
phu (Hoàng Lê nhất thống chí, sách đã dẫn, tr . 335). Theo Lê sử toàn yếu và
Minh đô sử, thì trong quân xâm lược Thanh lúc đó cứ mỗi chiến binh có đến ba
lương binh. Theo sự trù tính của tồng đốc Phú Cương và tuần phủ Tôn Vĩnh Thanh
thì sau khi chiếm được Thăng Long, nếu quân Thanh tiếp tục tiến quân vào Nam,
phải điều động thêm trên 20 vạn phu tải lương.
Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập (q. 30) cho biết trong
cuộc xâm lược này, nhà Thanh đã huy động đến 20 vạn quân chiến đấu từ các lộ
Lưỡng Quảng và Vân Quý. Đặc biệt tờ Chiếu phát phối hàng binh của nội địa của
Quang Trung do Ngô Thì Nhậm viết, còn chép lại trong bộ Ngô gia văn phái tuyển
(q.XV), cho biết số quân Thanh sang xâm lược nước ta là 29 vạn.
Những tài liệu trên tuy không hoàn toàn thống nhất nhưng cũng
cho phép bác bỏ những điều ghi chép quá sai sự thật của chính sử nhà Thanh.
Theo tờ chiếu của Quang Trung là văn bản chính thức, đại đương thì tổng số quân
Thanh xâm lược là 29 vạn, có lẽ bao gồm cả quân chiến đấu và số phu phục dịch
đã điều sang nước ta.
Quân Tây Sơn đồn trú ở Bắc Hà lúc bấy giờ do đại tư mã Ngô Văn
Sở chỉ huy, chỉ có khoảng bảy, tám nghìn (Theo lời khai của Chu Đình Lý vốn là
một viên quan của Tây Sơn bị thổ ty trấn Mục Mã (Cao Bảng) là Bế Nguyên Luật
bắt nộp cho nhà Thanh (Đại Thanh lịch triều thực lục, q. 1312, tr.26). Trước
tình thế bất lợi về nhiều mặt, quân Tây Sơn theo chủ trương đúng đắn của Ngô
Thì Nhậm, tạm thời rút lui về giữ phòng tuyến Tam Điệp - Biện Sơn.
Tối ngày 19 tháng 10 một năm Mậu Thân (ngày 16-12-1788), quân
Thanh bắt đầu vượt sông Nhị tiến vào chiếm đóng kinh thành Thăng Long. Giành
được thắng lợi tương đối dễ dàng, thống soái của giặc là tổng đốc Lưỡng Quảng
Tôn Sĩ Nghị, với chức Chinh Man đại tướng quân, tỏ ra rất chủ quan, khinh địch.
Hắn cho việc chiếm Thăng long tiêu diệt quân Tây Sơn dễ như “nhổ nước bọt xoa
tay là làm xong việc”, như “thò tay lấy đồ vật ở trong túi, đến sớm lấy sớm,
đến muộn lấy muộn đó mà thôi” (Ngô gia văn phái, Hoàng Lê nhất thống chí, bản
dịch, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1964, tr.346 và 350). Nhận được tin thắng
trận, vua Càn Long nhà Thanh cũng hết lời khen Tôn Sĩ Nghị là một “Đại thần
toàn tài”, là người “một mình gánh vác, điều khiển có phương pháp, cho nên
không đầy một tháng mà đã thành công, thật xứng đáng với sự ủy nhiệm của trẫm”
(Đại Thanh lịch triều thực lục, q. 1.318, tr.21 và 241). Hoàng đế nhà Thanh
liền phong cho Tôn Sĩ Nghị tước Mưu dũng công hạng nhất và thưởng cho quân linh
mỗi người thêm từ một đến hai tháng lương.
Tự mãn trước thành công bước đầu, Tôn Sĩ Nghị ra lệnh tạm thời
đóng quân, cho quân sĩ nghỉ ngơi chuẩn bị ăn Tết Nguyên đán. Hắn xin vua nhà
Thanh đặt thêm trạm vận chuyển lương thực và tăng thêm quân số để sau Tết,
khoảng ngày mồng 6 tháng giêng Kỷ Dậu (ngày 31-1- 1789) sẽ tiến quân “vào tận
sào huyệt của giặc, bắt sống Nguyễn Huệ” (Theo Thánh vũ ký của Ngụy Nguyên thì
quân Thanh đã lập 70 trạm vận chuyển lương thực trên hai động từ Vân Nam và
Quảng Tây đến Thăng Long (q. 6 tờ 35a). Theo Đại Thanh lịch triều thực lục thì
từ Thăng Long vào Quảng Nam, quân Thanh trù tính phải lập thêm 123 trạm lương thực
và cần thêm 20 vạn phu (q. 1319)). Hắn tuyên bố một cách ngạo nghễ: “Bây giờ đã
sắp hết năm, đại quân xa xôi tới đây, cần phải nghỉ nghợi không nên đánh vội.
Giặc gầy mà ta đang béo, hãy để chúng tự đến nộp thịt” (Hoàng Lê nhất thống
chí, sách đã dẫn, tr.350). Hắn đóng đại bản doanh tại cung Tây Long (Cung Tây
Long ở trên bến Tây Long phía ngoài cửa Ô Tây Long (hay Tây Luông), nay là
khoảng phía trên Viện Bảo tàng lịch sử) bên bờ sông Nhị về phía đông nam thành
Thăng Long và bố trí các đạo quân thành thế phòng ngự tạm thời vừa để bảo vệ
đại bản doanh, vừa để phòng sự tiến công bất ngờ của đối phương. Đạo quân chủ
lực gồm quân lính Lưỡng Quảng do Tôn Sĩ Nghị trực tiếp chỉ huy, đóng doanh trại
ở bãi cát hai bên bờ sông Nhị, khoảng bến Bồ Đề, ở giữa có cầu phao qua lại.
Đại quân Điền Châu, Triều Châu do tri phủ Điền Châu là Sầm Nghi Đống chỉ huy,
đóng ở Đống Đa (thuộc trại Phương Thượng, nay thuộc quận Đống Đa, Hà Nội). Đạo
quân Vân Quý do đề đốc Ô Đại Kinh chỉ huy, đóng ở Sơn Tây (Hà Nội). Đạo quân
Khâm Châu theo đường ven biển sang, đóng ở Hải Dương (Chính sử và các tài liệu
của ta không ghi chép đạo quân này. Nhưng có một số tài liệu nhà Thanh có đề
cập đến. Chúng tôi tạm thời đưa ra để tiếp tục nghiên cứu thêm).
Kinh thành Thăng Long và một bộ phận đất Bắc Hà dã bị quân giặc
chiếm đóng, giày xéo. Tôn Sĩ Nghị buông lỏng cho quân lính “mặc sức làm điều
phi pháp” (Hoàng Lê nhất thống chí, sách đã dẫn, tr.350). Hàng ngày, bọn chúng
kéo nhau đi cướp bóc, hãm hiếp, giết người, gây ra những tội ác tày trời đối với
nhân dân ta. Bọn chúng “kiếm mọi cách vu hãm những người lương thiện, áp bức,
cướp bóc những thà giàu có, thậm chí giữa chợ giữa đường cũng cướp giật của
cải, hãm hiếp đàn bà, không còn kiêng sợ gì cả” (Hoàng Lê nhất thống chí,
tr.348).
Bè lũ Lê Chiêu Thống cũng bám gót quân xâm lược trở về kinh
thành. Lê Chiêu Thống hiện nguyên hình là một tên vua bù nhìn ươn hèn, đốn mạt.
Nhân dân Thăng Long than thở với nhau: “Nước Nam ta từ khi có đế, có vương đến
nay, chưa thấy bao giở có ông vua luồn cúi đê hèn như thế” (Hoàng Lê nhất thống
chí, tr.348). Dựa vào thế quân Thanh, bọn phong kiến bán nước này chỉ lo trả
thù báo oán một cách ti tiện, dã man và tìm cách vơ vét lương thực của nhân dân
để cung đốn cho hàng chục vạn quân xâm lược. Nhân dân Bắc Hà đã mấy năm liền
mất mùa, đói kém, nay lại càng khốn khổ vì nạn đốc thúc quân lương của bọn
chúng.
Càng căm ghét quân cướp nước và bán nước, nhân dân Bắc Hà càng
sôi sục căm thù, hướng về lá cờ cứu nước sáng người chính nghĩa của quân Tây
Sơn. Đó là cơ sở chính trị quan trọng để phong trào Tây Sơn phát huy đến cao độ
sức mạnh đoàn kết toàn dân, vươn lên hoàn thành sứ mạng chống ngoại xâm, bảo vệ
độc lập dân tộc. Quân Tây Sơn tạm thời rút lui, như Ngô Thì Nhậm đã nói, chẳng
qua là để “cho chúng (chỉ quân Thanh) ngủ trọ một đêm, rồi lại đuổi đi” (Hoàng
Lê nhất thống chí, tr.342). Cuộc rút lui chủ dộng và có tính toán đó, không
những bảo toàn được lực lượng của ta mà còn kích động thêm tính kiêu căng,
khinh địch của Tôn Sĩ Nghị và tạo ra thời cơ, chuẩn bị điều kiện cho cuộc phản
công chiến lược quét sạch quân giặc ra khỏi bờ cõi. Vì vậy, Nguyễn Huệ tán
thành hành dộng chiến lược của quân Tây Sơn ở Bắc Hà và đánh giá cao chủ trương
của Ngô Thì Nhậm, coi đó là một kế “rất đúng”.
***
Trong lúc Tôn Sĩ Nghị say sưa, tự mãn với thắng lợi đã giành
được và quân Thanh đang mải mê chuẩn bị ăn Tết, thì cả dân tộc ta được phong
trào cách mạng nông dân Tây Sơn cổ vũ mạnh mẽ, và dưới sự tổ chức, lãnh đạo
tuyệt vời của người anh hùng “áo vải” Nguyễn Huệ, đã vùng đứng dậy, kiên quyết
và khẩn trương bước vào cuộc giao tranh quyết định với quân thù.
Ngày 20 tháng 10 một (ngày 17-12-1788), khi quân Thanh tiến vào
Thăng Long thì quân Tây Sơn ở Bấc Hà đã rút về Tam Điệp - Biện Sơn. Quân ta lợi
dụng địa hình lợi hại ở vùng này, xây dựng thành một chiến tuyến vững chắc vừa
có thề chặn đứng cuộc tiến công của quân địch vào Nam, vừa chuẩn bị địa bàn tập
kết cho đại quân và căn cứ xuất phát cho cuộc phản công này.
Phòng tuyến Tam Điệp - Biện Sơn đến nay vẫn còn di tích khá rõ.
Tam Điệp là một dãy núi đá vôi nằm giữa Thanh Hóa - Ninh Bình (nay thuộc xã Tam
Điệp tỉnh Ninh Bình), phía trên nối liền với núi rừng Hòa Bình, phía dưới ăn ra
sát biển. Những đường giao thông thủy bộ từ Thăng Long vào Nam đều phải di qua
dãy núi này: đường “thượng đạo” qua Phố Cát, đường thiên lý qua đèo Tam Điệp,
đường thủy qua cửa biền Thần Phù. Bộ binh Tây Sơn lui về giữ Tam Điệp trước hết
nhằm chiếm lĩnh một tuyến chướng ngại thiên nhiên lợi hại, giành nơi đứng chân
vững chãi trong phòng ngự cũng như tiến công. Quân Tây Sơn lợi dựng dãy núi Tam
Điệp như một bức thành tự nhiên và bố trí phòng ngự ở những vị trí xung yếu
nhằm bịt kín các đường giao thông thủy bộ qua đây mà quan trọng nhất là đường
thiên lý qua đèo Tam Điệp. Ở đây còn di tích cửa ải Tam Điệp mà nhân dân địa
phương thường gọi là “Kẽm Đó” và thành, lũy xưa. Biện Sơn là một hòn đảo ở phía
nam Thanh Hóa, nằm trên con đường ven biền từ bắc vào nam. Trên hòn đảo này còn
di tích ba tòa thành nhỏ hình tròn và bán nguyệt, xây từ đời Lê, sau này nhà
Nguyễn sửa chữa tu bổ lại. Thủy binh Tây Sơn rút về đóng ở Biện Sơn để khống
chế con đường ven biển và chuẩn bị một căn cứ thủy quân cho cuộc phản công
chiến lược nay mai.
Ngày 24 tháng 10 một (ngày 21-12-1788), tại Phú Xuân, Nguyễn Huệ
nhận được tin cấp báo của tướng Ngô Văn Sở do đô đốc Nguyễn Văn Tuyết phi ngựa
mang vào. Và ngày hôm sau - ngày 25 (ngày 22-12-1788) - Nguyễn Huệ trịnh trọng
làm lễ đăng quang, chính thức lên ngôi hoàng đế, đặt niên hiệu là Quang Trung,
rồi lập tức hạ lệnh xuất quân. Quang Trung tự thống lĩnh đại quân theo hai
đường thủy bộ, tiến ra Bắc.
Ngày 20 tháng chạp (ngày 15-l-1789), đại quân Tây Sơn tập kết
tại phòng tuyến Tam Điệp - Biện Sơn. Thủy binh tập kết tại căn cứ Biện Sơn. Bộ
binh tập kết ở phía sau phòng tuyến Tam Điệp, chủ yếu là vùng huyện Hà Trung tỉnh
Thanh Hóa ngày nay. Ở đây còn nhiều di tích và truyền thuyết phản ánh dịa
bàn tập kết của quân Táy Sơn như Gò Bia, đồi ông Đùng - nơi pháo binh Táy Sơn
tập bắn; Thung Voi - nơi nhốt voi chiến; đồng Cắm Quân - nơi đóng quân; làng
Gạo - nơi chứa lương thực; đồng Cán Cờ, đồng Con Chuối - nơi quân Tây Sơn bày
cờ tập trận và tập chém đổ cả một vùng chuối, ...
Tại khu vực tập kết, Quang Trung đã hoàn thành công việc chuẩn
bị cho cuộc phản công chiến lược và đề ra kế hoạch tác chiến cụ thể nhằm nhanh
chóng tiêu diệt quân xâm lược, giải phóng kinh thành Thăng Long và giải phóng
cả đất nước. Quyết tâm sắt đá và kế hoạch mưu trí đó dựa trên sự nghiên cứu
tường tận, phân tích và đánh giá đúng đắn toàn bộ tình hình và so sánh lực
lượng địch ta lúc bấy giờ.
Quân Thanh đã chiếm được kinh thành và khống chế cả vùng đồng
bằng Bắc Hà. Quân địch ngoài 29 vạn quân Thanh, còn có khoảng 2 vạn quân “cần
vương” của bù nhìn Lê Chiêu Thống (Việt sử thông giám cương mục cho biết vài
vạn quân Lê Chiêu Thống bao gồm “nghĩa binh các đạo” và “cựu binh Thanh Nghệ”
(Chính biên, q. 47, tờ 38b). “Nghĩa binh” là quân lính mới tuyển mộ, “cựu binh”
là quân lính của vua Lê, chúa Trịnh trước đây (gọi là “ưu binh”, hay quân tam
phủ, hay quân Thanh Nghệ) đã bị tan rã, nay tập hợp lại). Trong lúc đó, ở Phú
Xuân quân đội Tây Sơn dưới quyền chỉ huy của Nguyễn Huệ chỉ có khoảng 6 vạn
quân (Theo thư của Doussain gửi Blandi ngày 6-6-1787. Nguyên bản trong Archives
des Missions étrangères, số 746, tr.29; L. Cadière dẫn trong Documents relatifs
à l’epoque de Gia Long, B.E.F.E.O., 1912). Tất nhiên Nguyễn Huệ phải để một bộ
phận quân đội đó ở lại bảo vệ Phú Xuân và đề phòng sự quấy rối của bè lũ phong
kiến phản động Nguyễn Ánh ở mặt Nam. Nguyễn Huệ biết rằng “quân lính thì cốt
hòa thuận không cốt đông, cốt tinh nhuệ không cốt nhiều” và thắng bại của chiến
tranh “không phải lấy mạch đè yếu, lấy nhiều hiếp ít” (Ngô gia văn phái, Bang
gia lục, sách chữ Hán). Nhưng mặt khác Nguyễn Huệ cũng nhận thức sâu sắc tầm
quan trọng của số lượng quân đội trong chiến tranh và sự cần thiết phải khắc
phục tình trạng so sánh quá chênh lệch về quân số giữa ta và dịch. Do dó, trên
đường hành quân từ Phú Xuân ra Tam Điệp, Nguyễn Huệ đã cố gắng bổ sung và tăng
cường quân số, giải quyết vấn đề số lượng quân đội một cách đúng mức, hợp lý.
Với truyền thống yêu nước nồng nàn, hàng vạn thanh niên trai
tráng đã tự nguyện gia nhập hàng ngũ quân Tây Sơn hăng hái góp phần diệt giặc
cứu nước. Chỉ hơn 10 ngày dừng quân lại ở Nghệ An, Nguyễn Huệ đã tuyển thêm
được hàng vạn tân binh, đưa số quân Tây Sơn lên 10 vạn quân và vài trăm voi
chiến (Sử quán triều Nguyễn, Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập, q
30). Ở Thanh Hóa, lúc đó xuất hiện một bài ca kêu gọi nhân dân nhập ngũ
đến nay vẫn còn lưu truyền trong dân gian:
Thùng thùng trống đánh quân sang,
Chợ Già trước mặt, quán Mau bên đàng.
Qua Chiêng thì rẽ sang Giàng
Qua quán Đông Thổ vào làng Đình Huơng.
Anh đi theo chúa Tây Sơn,
Em về cày cuốc mà thương mẹ già.
(Ca dao sưu tầm ở Thanh Hóa, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1963,
tr.38. Chợ Già, quán Mau, Chiêng thuộc huyện Hoằng Hóa; Giàng, Đông Thổ, Đình
Hương thuộc huyện Đông Sơn. Đó là những địa điểm nằm trên con đường thiên lý cũ
đi về làng Thọ Hạc, nơi Quang Trung dừng quân lại làm lễ thệ sư trên đường tiến
quân ra Bắc diệt quân Thanh).
Tại Tam Điệp, Quang Trung đã có một lực lượng quân đội hùng hậu
trên 10 vạn quân. Sự chênh lệch về số lượng vẫn tồn tại ở mức độ đáng kể. Quân
đội Tây Sơn bước vào cuộc quyết chiến với so sánh lực lượng gần như một chọi
ba. Nhưng bên cạnh thế yếu về số lượng đó, Quang Trung đã tạo ra và phát huy
nhiều ưu thế hơn hẳn địch.
Phong trào Tây Sơn vốn bắt nguồn từ một cuộc khởi nghĩa nông dân
lúc bấy giờ đã phát triển lên thành một phong trào dân tộc. Quân đội Tây Sơn từ
tổ chức vũ trang của nông dân và các tầng lớp dân nghèo đã phát triển lên thành
‘quân đội của nông dân, về sau trở thành quân đội của dân tộc” (Võ Nguyên Giáp,
Vũ trang quần chúng cách mạng xây dựng quân đội nhân dân, Nhà xuất bản Quân đội
nhân dân, Hà Nội, 1973. tr.80). Trải qua 17 năm (1771-1788) tôi luyện trong
ngọn lửa của cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc quyết liệt quân đội
đó đã trưởng thành và lớn mạnh vế mọi mặt. Nguyễn Huệ đã đưa trính độ tổ chức
và trang bị của quân đội Tây Sơn lên một bước phát triển rất cao.
Quân đội Tây Sơn bao gồm đủ các binh chủng: bộ binh, kỵ binh,
tượng binh, thủy binh. Tượng binh với hàng trăm con voi chiến hùng hổ là một
binh chủng tiến công và đột phá rất lợi hại mà quân Thanh không có. Thủy binh
được trang bị nhiều loại thuyền chiến và thuyền vận tải lớn. loại thuyền to của
Tây Sơn có thể chở được voi chiến, có thể mang đến 60 khẩu đại bác (loại 24
livres) và chở 700 người (Theo thư của Barizy gửi Letondal trong Archives des
Missions étrangères de Pari, Cochinchine, tài liệu đã, t. 801, tr.867). Sau này
một sĩ quan người Pháp là Se-nhô (Jean Baptiste Chaigneau) đã có dịp chạm trán
với thủy quân Tây Sơn, thừa nhận rằng: “Trước khi tận mặt thấy thuỷ quân của
địch (tức quân Tây Sơn), tôi có ý khinh thường, nhưng xin thú thực tôi đã lầm,
địch có những tàu mang đến 50, 60 khẩu đại bác...” (Thư của Jean Baptiste
Chaigneau gửi Baizy trong Archives des Mission étrangères de Paris,
Cochinchine, tài liệu đã dẫn, t. 801, tr.857).
Trong cuộc kháng chiến chống Thanh, thủy binh Tây Sơn giữ vai
trò quan trọng trong việc vận chuyển quân đội, bảo đảm tốc độ hành quân nhanh
và được Quang Trung sử dụng có hiệu quả làm những mũi vu hồi bao vây và chặn
địch rút chạy. Quân đội Tây Sơn được trang bị nhiều loại vũ khí tối tân lúc đó
như hỏa hồ (một loại súng phun lửa) và đại bác các cỡ. Đặc biệt Quang Trung có
một cải tiến quan trọng là không những đặt đại bác lên chiến thuyền, dùng voi
kéo đại bác cỡ lớn, mà còn đặt dại bác lên voi chiến như một thứ “pháo tự
hành”.
Tổ chức và trang bị của quân đội Tây Sơn không những không thua
kém quân Thanh mà còn có những mặt ưu việt hơn quân địch. Nhưng ưu thế chủ yếu
của quân Tây Sơn là tinh thần chiến đấu dũng cảm, khí thế tiến công mãnh liệt
và sự tham gia, ủng hộ nhiệt tình của nhân dân. Quang Trung thấy rõ sức mạnh
định đoạt của những ưu thế chính trị đó và ra sức phát huy tác dụng của nó
trong lúc chuẩn bị cũng như thực hành phản công.
Vốn từ quân đội nông dân trở thành quân đội dân tộc, quân Tây
Sơn đã mang sẵn trong mình tinh thần quật khởi của nông dân kết hợp với truyền
thống yêu nước bất khuất của dân tộc. Bằng nhiều hình thức động viên phong phú
tác động sâu sắc đến tư tường và tình cảm con người, Quang Trung chỉ rõ kẻ thù
nguy hiểm bậc nhất của cả dân tộc lúc này là quân xâm lược Thanh và bè lũ bán
nước Lê Chiêu Thống để từ đó, khơi sâu chí căm thù và quạt bùng lên ngọn lửa
yêu nước trong toàn thể quân sĩ và nhân dân.
Trong lễ đăng quang cử hành tại Phú Xuân trước lúc xuất quân,
Quang Trung đã lên án hành động phản bội của Lê Chiêu Thống để xóa bỏ những ảnh
hưởng cuối cùng của tên vua bán nước này và kêu gọi nhân dân đoàn kết lại dưới
lá cờ cứu nước của Tây Sơn: “Trẫm hai lần gây dựng họ Lê, thế mà tự quân họ Lê
không biết giữ xã tắc, bỏ bước đi bôn vong; sĩ dân Bắc Hà không hướng về họ Lê,
chỉ trông mong vào Trẫm” (Chiếu lên ngôi hoàng đế do Ngô Thì Nhậm soạn, bản
dịch trong Hợp tuyển thơ văn Việt Nam thế kỷ XVIII - giữa thế kỷ XIX, Nhà xuất
bản Văn hóa, Hà Nội, 1963, tr.222).
Tại trấn doanh Nghệ An (thành phố Vinh), Quang Trung tổ chức một
cuộc duyệt binh lớn và đọc bài hịch kêu gọi quân sĩ. Quang Trung đã khẳng định
sự tồn tại bền vững của đất nước: “Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao nấy đã phân
biệt rõ ràng, phương Nam, phương Bắc chia nhau mà cai trị...” và nêu cao lịch
sử chống ngoại xâm oanh liệt của dân tộc từ khởi nghĩa Hai Bà Trưng cho đến các
cuộc kháng chiến chống Tống, chống Nguyên, chống Minh với truyền thống
“thuận lòng người, dấy nghĩa quân, để chỉ đánh một trận là thắng và đuổi chúng
về phương Bắc”. Tiếp tục những trang sử vẻ vang đó, Quang Trung kêu gọi: “Nay
người Thanh lại sang, mưu đồ lấy nước Nam ta đặt làm quận huyện, không biết
trông gương mấy đời Tống, Nguyên, Minh ngày xưa. Vì vậy ta phải kéo quân ra
đánh đuổi chúng...” (Hoàng Lê nhất thống chí, sách đã dẫn, tr.360).
Trên cơ sở tư tưởng và tình cảm đó, Quang Trung nâng cao ý chí
chiến đấu, xây dựng cho quân đội tinh thần quyết chiến quyết thắng, quyết tâm
và niềm tin mãnh liệt. Tại Thọ Hạc (thành phố Thanh Hóa), Quang Trung làm lễ
“thệ sư” và ra lệnh: “Bớ chư quân! Phàm ai bằng lòng chiến đấu thì hãy vì ta
giết sạch quân giặc. Nếu ai không muốn thì hãy xem ta giết vài vạn người trong
một trận, đó không phải là chuyện hiếm làm đâu” (Nguyễn Thu, Lê quý kỷ sự, sách
chữ Hán, chép tay). Cũng trong buổi lễ tuyên thệ trang trọng đó, Quang Trung
đọc bài hiểu dụ tướng sĩ với những lời tuyên bố đanh thép biểu thị cao độ ý chí
độc lập tự chủ và quyết tâm tiêu diệt địch:
Đánh cho để dài tóc,
Đánh cho để đen răng.
Đánh cho nó chích luân bất phản,
Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn,
Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ.
(Nguyên văn chữ nôm của Quang Trung. Hai câu trên nói lên ý thức
đánh giặc để bảo vệ nền văn hóa dân tộc lâu đời, để gìn giữ những phong tục tập
quán của nhân dân. Hai câu giữa nói lêu quyết tám đánh tiêu diệt khiến cho quân
giặc không còn chiếc xe nào trở về, không còn một mình giáp nào nguyên. Câu
cuối nghĩa là: đánh cho biết rằng nước Nam anh hùng là có chủ.).
Lễ “thệ sư” ở Thọ Hạc là một hình thức động viên chính trị có tác
dụng bồi dưỡng thêm bước nữa ý chí, nghị lực và khí thế của quân đội, nâng cao
tầm vóc của quân đội lên ngang với yêu cầu của sứ mạng lịch sử. Sách Lê kỷ sự
mô tả không khí buổi lễ đó như sau: “Huệ dứt lời, chư quân dạ ran như sấm, rung
động cả hang núi, trời đất đổi mầu. Rồi chiêng trống đồng thời khua vang, quân
lính gấp đường ra Bắc”.
Trước nạn ngoại xâm, Quang Trung đã biết nắm lấy và giương cao
ngọn cờ dân tộc để tổ chức và động viên quân đội để cổ vũ toàn dân đứng lên
chống giặc. Quang Trung đã đưa phong trào nông dân Tây Sơn lên đỉnh cao của
phong trào dân tộc, chuẩn bị một cuộc chiến tranh nhân dân chống xâm lược rất
sâu rộng. Nhân dân đã tự nguyện tham gia vào quân đội trực tiếp chiến đấu, đã
ủng hộ quân đội về mọi mặt, đã cung cấp lương thực, tạo thành lực lượng hậu cần
tại chỗ cho quân dội. Một giáo sĩ người Pháp có mặt ở nước ta thời đó là
Bít-xa-se (De la Bissachère) viết trong tập hồi ký của mình: khi được tin quân
Thanh xâm lược, Quang Trung lập tức tiến ra Bắc Hà, “ông đi suốt ngày đêm, dọc
đường dùng quyền lực thu nạp tất cả những người có thể cầm được vũ khí, ông
không có lương thực nào khác ngoài lương thực tìm thấy trong các làng mà ông đi
qua” (Ch. Maybon, La relation sur le Tunkin et la Cochinchine de M.De la
Bissachère, Paris, 1920, tr.182. Tài liệu này còn được ghi chép trong État
actuel du Tunkin, de la Cochichine et des autres royames de Cambodge, Laos et
Lac Tho par M. De la Bissachère, Paris, 1812, t. II, tr.170, và Voyage
commercial et politique aux Indes orientales aux iles Philippines, à la Chine
avec des notions sur la Cochinchine et le Tonquin pendant les années 1803,
1804, 1805, 1806 ét 1807, Paris, 1810, t. III, tr.230).
Trước mặt quân Thanh không phải chỉ có 10 vạn quân Tây Sơn thiện
chiến mà là cả một dân tộc anh hùng đang vùng dậy chống ngoại xám. Đó là bước
chuẩn bị có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi của trận tập kích chiến lược
sắp tới Quang Trung đã tiến hành bước chuẩn bị đó trong một thời gian rất khẩn
trương (khoảng hơn 1 tháng) và tiến hành ngay trên đường tiến quân từ Phú Xuân
ra Bắc Hà. Bằng những cố gắng lớn lao, Quang Trung đang làm thay đổi dần so
sánh lực lượng giữa ta và địch, tạo nên những điều kiện chính trị, quân sự cần
thiết để chiến thắng quân thù bằng những đòn phản công sấm sét.
Với khối óc nhạy cảm và tầm mắt sắc bén của nhà quân sự kiệt
xuất, Quang Trung không những đánh giá đúng chỗ mạnh, chỗ yếu của địch mà còn
nhanh chóng phát hiện ra ý đồ và sai lầm của địch. Quân Thanh với ưu thế binh
lực, đang trên đà tiến công thắng lợi, bỗng dừng lại ở Thăng Long trong thời
gian hơn một tháng. Tôn Sĩ Nghị muốn để cho quân lính nghỉ ngơi ăn Tết và chuẩn
bị thêm lực lượng rồi dự định sau Tết, ngày mồng 6 tháng giêng sẽ tiếp tục tiến
công. Bộ chỉ huy quân địch đã phạm một sai lầm chiến lược nghiêm trọng là đánh
giá quá thấp lực lượng đối phương, và từ thế tiến công chuyển sang hình thái
phòng ngự tạm thời. Do đó, chúng đã tự để mất quyền chủ động ban đầu và không
phát huy được tác dụng của ưu thế binh lực. Từ đại tướng Tôn Sĩ Nghị cho đến
các tướng lĩnh và quân lính đều hết sức chủ quan, khinh địch, chỉ lo cướp bóc,
vơ vét và chuẩn bị ăn Tết. Tôn Sĩ Nghị “mặc cho quân lính các đồn tự tiện bỏ cả
đội ngũ, đi lại lang thang, không còn có kỷ luật gì cả. Có kẻ đi ra khỏi thành
đến hơn mười dặm để kiếm củi đun, có kẻ đi tới các chợ búa dân gian để buôn
bán, hàng ngày sớm đi tối về xem như việc bình thường. Bọn tướng tá cũng ngày
ngày chơi bời, tiệc tùng, không hề để ý gì đến việc quân. Hễ ai nhắc đến tình
hình giặc giã thì bọn họ đáp rằng: chúng nó như cá chậu chim lồng, còn chút hơi
thừa thoi thóp, không đáng nói đến” (Hoàng Lê nhất thống chí, sách đã dẫn, tr.3
53). Kỷ luật và tinh thần chiến đấu của quân lính gần như bị tê liệt. Còn bọn
bù nhìn Lê Chiêu Thống thì từ ngày 25 tháng chạp đã làm lễ “phong ấn” (cất ấn để
nghỉ việc ăn Tết). Từ đó “các quan và quân lính cũng đều cho phép nghỉ mười
ngày để cùng vui đón tiết xuân” (Hoàng Lê nhất thống chí, sách đã dẫn, tr.354).
Quang Trung tìm cách khoét sâu thêm sai lầm của địch, kích động
thêm tinh thắn chủ quan của Tôn Sĩ Nghị. Khi tiến quân ra đến Nghệ An, Thanh
Hóa, Quang Trung sai người “đưa thư đến Sĩ Nghị để xin đầu hàng, lời lẽ trong
thư rất là nhũn nhặn, khiêm tốn” (Việt sử thông giám cương mục, sách đã dẫn, q.
47, tr.40, bản dịch, t. XX, tr.61). Tôn Sĩ Nghị càng ngạo mạn, ra lệnh cho
Quang Trung: “Hãy rút quân về Thuận Hóa để chờ phân xử” (Lê quý kỷ sự, sách đã
dẫn).
Phát hiện và chớp được thời cơ chiến lược có một không hai đó,
Quang Trung quyết định giành quyền chủ động, mở cuộc tập kích chiến lược chớp
nhoáng, tung toàn bộ lực lượng ra đánh tan quân địch vào lúc chúng bất ngờ
nhất. Quang Trung biết thời cơ đó chỉ đóng khung trong quãng thời gian khi quân
địch chuyển sang phòng ngự tạm thời cho đến trước khi chúng tiếp tục tiến công
nghĩa là trước ngày 6 tháng giêng Tết Kỷ Dậu. Thực hành phản công và quyết
chiến chiến lược vào dịp đó, nhất là vào những ngày Tết, tức là giành lại được
quyền chủ động tiến công địch và tạo nên sự bất ngờ lớn của hành động chiến
lược.
Ý đồ quyết tâm chiến lược trên đây của Quang Trung hình thành
khá sớm. Trong những ngày dừng quân lại ở trấn doanh Nghệ An, Quang Trung đã có
ý định đó. Điều này được thể hiện rõ trong buổi nói chuyện giữa Quang Trung với
Nguyễn Thiếp - một danh sĩ có tiếng của đất Nghệ An. Bàn về mưu kế đánh giặc,
Nguyễn Thiếp nói: “Bây giờ trong nước trống không, lòng người tan rã. Quân
Thanh ở xa tới đây không biết tình hình quân ta yếu hay mạnh, không hiểu rõ thế
nên đánh nên giữ ra sao. Chúa công đi ra chuyến này, không quá mười ngày, giặc
Thanh sẽ bị dẹp tan” (Hoàng Lê nhất thống chí, sách đã dẫn, tr.359). Quang
Trung tỏ ý tán đồng ý kiến đó vì đấy cũng chính là tư tưởng chiến lược đã hình
thành rõ nét trong sự phán đoán và suy nghĩ của Quang Trung.
Càng nghiên cứu kỹ tình hình địch, Quang Trung càng củng cố và
khẳng định quyết tâm chiến lược trên. Vừa ra đến Tam Điệp, Quang Trung đã tuyên
bố với các tướng lĩnh ở Bắc Hà : “Lần này ta ra thân hành cầm quân, phương lược
tiến đánh đã có tính sẵn. Chằng qua mười ngày, có thể đuổi được người Thanh”
(Hoàng Lê nhất thống chí, sách đã dẫn, tr.361). Sau đó, trong bữa tiệc khao
quân trước giờ xuất trận, Quang Trung khẳng định lại một lần nữa quyết tâm đánh
tan quân giặc, giải phóng thành Thăng Long trước ngày mồng 5 tháng giêng để
ngày 5 sẽ mở tiệc mừng chiến thắng giữa kinh thành (Hoàng Lê nhất thống chí,
sách đã dẫn, tr.362; Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập, sách đã dẫn, q. 30,
tr.33).
Nhưng từ quyết tâm chiến lược, xây dựng thành kế hoạch tác chiến
cụ thể, Quang Trung còn phải giải quyết hàng loạt vấn đề phức tạp. Quân Thanh tuy
chủ quan, khinh địch và bộc lộ những sai lầm chiến lược, nhưng lực lượng vẫn
nguyên vẹn và giữ ưu thế về số lượng. Tình hình đó đòi hỏi Quang Trung phải tìm
hiểu đầy đủ sự bố trí lực lượng của địch, địa hình từng khu vực, thấy rõ chỗ
mạnh, chỗ yếu trong thế trận phòng ngự của địch để xác định hướng tiến công
đúng đần, sử dụng binh lực một cách hợp lý nhất, tạo nên một thế trận tiến công
lợi hại nhất bảo đảm đánh tan và tiêu diệt địch một cách nhanh chóng, bất ngờ,
triệt để.
Tuy đã chuyển sang thế phòng ngự tạm thời trong những ngày Tết
nhưng Tôn Sĩ Nghị vẫn giữ ý đồ tiếp tục tiến công. Bốn đạo quân Thanh với tổ
chức, phiên chế không thay đổi, đóng ở bốn vị trí: Tây Long, Đống Đa, Hải
Dương, Sơn Tây. Gần hai vạn quân của Lê Chiêu Thống thì một bộ phận quan trọng
đóng trong nội thành Thăng Long, còn chia nhau đóng giữ một số trấn ở Bắc Hà.
Như vậy Thăng Long là khu vực tập trung binh lực, là trung tâm phòng thủ của
địch. ở đây có đại bản doanh của Tôn Sĩ Nghị ở cung Tây Long, có đại quân chủ
lực tinh nhuệ do Tôn Sĩ Nghị trực tiếp chỉ huy đóng ở bãi cát hai bên bờ sông
Nhị, có đạo quân Sầm Nghi Đống đóng ở Đống Đa và đội quân Lê Chiêu Thống trong
thành nội. Hai đạo quân Thanh đóng ở Sơn Tây và Hải Dương cũng để bảo vệ hai
cạnh sườn phía tây - bắc và đông - nam của Thăng Long. Ba khu vực đóng quân của
địch: Thăng Long, Sơn Tây, Hải Dương, hình thành một thế trận phòng ngự có thể
tiếp ứng cho nhau khi bị tiến công và đồng thời, có thể triển khai đội hình
tiếp tục tiến công đánh vào phòng tuyến Tam Điệp - Biện Sơn của quân Tây Sơn.
Theo sự xét đoán của Tôn Sĩ Nghị, nếu quân Tây Sơn có dám tiến
công thì hướng tiến công chủ yếu chỉ có thể là con đường thiên lý qua Tam Điệp
ra Thăng Long. Do đó, từ Thăng Long về phía nam chừng 60 dặm, Tôn Sĩ Nghị lập
ba đồn lũy, chia quân đóng giữ. Đó là đồn Ngọc Hồi (Thường Tín, Hà Nội), đồn
Nhật Tảo (Duy Tiên, Hà Nam) và đồn ở bờ bắc sông Nguyệt Quyết (Thanh Liêm, Hà Nam).
Nhưng như Tôn Sĩ Nghị đã nói, chỉ là “canh gác từ xa để đề phòng bất trắc vậy”
(Hoàng Lê nhất thống chí, sách đã dẫn, tr.350).
Mãi đến khi được tin Quang Trung đang tuyển quân ở Nghệ An,
Thanh Hóa, chuẩn bị tiến công ra Bác, Tôn Sĩ Nghị mới lo tăng cường lực lượng
phòng thủ xung quanh Thăng Long, chỉ yếu là mặt Nam. Hắn ra lệnh “đề phòng
trước, cho quân đi đóng giữ ở tất cả các nơi hiểm yếu tại trên khắp bốn ngả
đường” (Trần Nguyên Nhiếp, An Nam quân doanh kỷ yếu, sách viết tay của Quốc lập
đồ thư quán Bắc Kinh, do Trần Văn Giáp sưu tầm). Đặc biệt, phía nam Thăng Long,
Tôn Sĩ Nghị sai lập thêm nhiều đồn lũy mới, tạo thành một nệ thống phòng thủ
dài gần 90 km từ Gián Khẩu (Ninh Bình) đến Thăng Long. Đồn tiền tiêu của địch
đặt ở Gián Khẩu, tiếp theo đó là các đồn Nguyệt Quyết, Nhật Tảo, Hà Hồi, Ngọc
Hồi, Văn Điển. Đề đốc Hứa Thế Hanh là phó tướng của Tôn Sĩ Nghị được giao trọng
trách trực tiếp chỉ huy mặt trận phía nam, phụ trách hệ thống phòng thủ chủ yếu
này.
Đặc điểm của hệ thống phòng thủ phía nam Thăng Long là bao gồm
nhiều đồn binh bố trí theo những cự ly nhất định trên một tuyến dài theo hướng
đường thiên lý. Những dồn binh đó nói chung càng gần Thăng Long càng dày hơn,
kiên cố hơn và có binh lực lớn hơn. Trong cả hệ thống phòng thủ, đồn Hà Hồi giữ
vị trí quan trọng, và đặc biệt đồn Ngọc Hồi là cứ điểm then chốt đóng vai trò
quyết định. Đó là một hệ thống phòng thủ có chiều sâu, có trọng điểm, nhưng
cũng có nhược điểm là bố trí thành tuyến dài, nhô về phía đối phương, hai bên
sườn bị hở, dễ bị chia cắt hoặc vu hồi. Cách bố phòng thể hiện rõ ý đồ chia Tôn
Sĩ Nghị là buộc đối phương phải giao chiến từ xa Thăng Long, phải đột phá liên
tục và càng tiến sâu càng phải đột phá những cứ điểm mạnh hơn. Do đó, tốc độ
tiến công của đối phương sẽ chậm dần, lực lượng bị tiêu hao, sức chiến đấu bị
giảm sút. Đồn Ngọc Hồi với binh lực lớn và công sự kiên cố có thể tiếp ứng cho
các vị trí bị uy hiếp và đủ sức ngăn chặn cuộc tiến công của đối phương. Trong
trường hợp xấu nhất, đạo quân chủ lực của Tôn Sĩ Nghị ở Thăng Long cũng có thể
kịp thời cơ động chi viện cho các mặt trận, phá tan cuộc tiến công đó.
Quang Trung quyết định chọn khu vực Thăng Long làm mục tiêu tiến
công chủ yếu. Chỉ có đánh vào sào huyệt địch, đập nát thế trận phòng ngự, tiêu
diệt những lực lượng chủ lực tinh nhuệ của địch thì mới tranh thủ được thời cơ
phát huy cao độ yếu tố bất ngờ, giành thắng lợi quyết định nhanh, gọn nhất.
Nhưng đánh vào Thăng Long lúc đó là đánh vào trung tâm phòng thủ
của địch, phải đương đầu với chủ lực của Tôn Sĩ Nghị, cánh quân Hứa Thế Hanh,
cánh quân Sầm Nghi Đống và quân Lê Chiêu Thống. Vậy nên tiến công trên một
hướng hay nhiều hướng và chọn hướng nào là chủ yếu? Đó là một vấn đề quan trọng
đòi hỏi phải tính toán, cân nhắc một cánh thận trọng, khoa học, nhất là trong
tương quan lực lượng: quân số Tây Sơn chỉ bằng khoảng một phần ba quân Thanh.
Tiến công trên một hướng thì Quang Trung có thể tập trung binh lực tiêu diệt
từng bộ phận quân địch, nhưng mặt khác, Tôn Sĩ Nghị lại có điều kiện điều dộng
quân từ các hướng khác đến tiếp ứng. Tiến công trên nhiều hướng thì quân Tây
Sơn dễ bị phân tán lực lượng, khó bảo đảm giành được thắng lợi quyết định. Để
giải quyết những mâu thuẫn đó, Quang Trung chủ trương tiến công địch trên hai
hướng và làm sao phải chia cắt cô lập các đạo quân địch, đặc biệt là không cho
Tôn Sĩ Nghị kịp thời sử dụng một cách tập trung đạo quân chủ lực đóng ở hai bên
bờ sông Nhị.
Quang Trung chọn hệ thống phòng thủ phía nam Thăng Long của địch
làm hướng tiến công chủ yếu. Chủ lực của Tây Sơn sẽ tiến công chính diện, hết
sức mãnh liệt, phá tung hệ thống phòng thủ chủ yếu này, tiêu diệt cánh quân Hứa
Thế Hanh rồi tiến lên Thăng Long.
Đồng thời, một bộ phận quân Tây Sơn sẽ bất ngờ tập kích, nhanh
chóng tiêu diệt đạo quân Sầm Nghi Đống ở Đống Đa. Đạo quân này không tinh nhuệ
nhưng giữ một vị trí quan trọng: bảo vệ cửa ngõ phía tây nam thành Thăng Long
và gần đại bản doanh của Tôn Sĩ Nghị. Sau khi tiêu diệt đạo quân này, quân Tây
Sơn sẽ lập tức tràn vào Thăng Long và thọc sâu uy hiếp dại bản doanh của Tôn Sĩ
Nghị. Đây là hướng tiến công thứ yếu nhưng rất quan trọng vì nó sẽ giáng một
đòn hết sức bất ngờ làm tan rã đội quân Lê Chiêu Thống trong nội thành Thăng
Long và dồn Tôn Sĩ Nghị cùng dạo quân chủ lực của hắn vào tình trạng tê liệt
không kịp trở tay đối phó.
Với hai hướng tiến công như vậy, Quang Trung vừa bảo đảm cô lập
và tiêu diệt hai đạo quân Hứa Thế Hanh, Sầm Nghi Đống, vừa đặt Tôn Sĩ Nghị vào
tình thế hoàn toàn bị động, không kịp tổ chức chống cự, không thể nào sử dụng
được lực lượng chủ lực và phải chọn lấy một trong hai cách xử lý: hoặc tháo
chạy tán loạn hoặc bị bao vây, tiêu diệt. Quang Trung đã xác định hướng tiến
công rất tài tình và tạo nên một thế trận bao vây tiến công thật lợi hại. Trên
hai hướng tiến công chủ yếu và thứ yếu quan hệ mật thiết với nhau trong một thế
trận thống nhất đó, sẽ diễn ra trận quyết chiến chiến lược lớn có ý nghĩa quyết
định toàn bộ cục diện chiến tranh.
Ngoài mục tiêu tiến công chủ yếu là khu vực Thăng Long với hai
hướng tiến công như trên, Quang Trung còn sử dụng một bộ phận lực lượng làm mũi
vu hồi đánh vào đạo quân địch ở Hải Dương và một bộ phận khác vòng vào sau lưng
địch, chặn đường rút chạy của tàn quân Thanh. Riêng dạo quân Ô Đại Kinh ở Sơn
Tây, Quang Trung không tiến công. Đó là vì đạo quân này mới sang, lại đóng ở
một vị trí hơi tách biệt ra ở phía tây - bắc, không thể phát huy được tác dụng
gì khi Thăng Long bị tiến công. Quang Trung không tiến công hay ngăn chặn là dể
tập trung binh lực vào những hướng quan trọng và biết chắc đạo quân Thanh này
tự nó sẽ tan vỡ và tháo chạy.
Để thực hiện ý định trên, Quang Trung chia toàn quân ra làm năm
đạo với sự bố trí lực lượng và phân chia nhiệm vụ cụ thể như sau:
Đạo quân chủ lực đảm nhiệm hướng tiến công chủ yếu do Quang
Trung trực tiếp chỉ huy. Đạo quân này tập trung lực lượng cao, bảo đảm cơ động
nhanh, tiến công mạnh, đột kích khỏe. Thành phần binh chủng gồm bộ binh, tượng
binh, kỵ binh với nhiều voi chiến và hỏa hổ, đại bác. Đại tư mã Ngô Văn Sở, nội
hầu Phan Văn Lân là những tướng Tây Sơn đã quen thuộc chiến trường Bắc Hà, chỉ
huy quân tiên phong. Hám hổ hầu tức Chiêu Viễn tướng quân là người đã từng
chiêu tập hàng vạn tân binh ở vùng Thanh Nghệ, đốc suất hậu quân làm đốc chiến.
Nhiệm vụ của đạo quân này là tiến công thẳng vào hệ thống phòng thủ của địch ở
phía nam Thăng Long, mặt trận chính của quân Thanh.
Đạo quân thứ hai do đô đốc Đặng Tiến Đông chỉ huy, đảm nhiệm
hướng tiến công thứ yếu. Đạo quân này gồm bỵ binh và tượng binh, lực lượng
không nhiều nhưng khá mạnh và cơ động. Từ Tam Điệp, đạo quân này ra Thiên Quan
(Nho Quan, Ninh Bình), xuyên qua (Chương Đức, Chương Mỹ, Hà Nội), tiến thẳng
đến Nhân Mục (Mọc, nay thuộc Nhân Chính, Từ Liêm, Hà Nội) tức đi theo con đường
“thượng đạo” hay “lai kinh”- một con đường giao thông cổ được sử dụng nhiều
trong các cuộc chiến tranh thời Lý, Trần, Lê. Nhiệm vụ của đô đốc Đông là bất
ngờ bao vây tiêu diệt đạo quân Sầm Nghi Đống ở Đống Đa rồi qua cửa tây - nam (ô
Chợ Dừa, Đống Đa, Hà Nội) thọc sâu vào thành Thăng Long làm rối loạn khu trung
tâm phòng thủ của dịch, uy hiếp đại bản doanh của Tôn Sĩ Nghị.
(Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập của sử quán nhà Nguyễn, Tây Sơn thuỷ mạt
khảo của Đào Nguyên Phổ chép là đô đốc Mưu. Hoàng Lê nhất thống chí của các tác
giả họ Ngô lại chép là đô đốc Long. Tên đã khác nhau, họ, quê quán và tiểu sử
lại càng không biết. Gần đây chúng tôi phát hiện một số tư liệu đáng tin cậy
cho phép xác định đô đốc Đặng Tiến Đông là một tướng Tây Sơn chỉ huy đạo quân
này. Xem: Phan Huy Lê, Đô đốc Đặng Tiến Đông, một tướng Tây Sơn chỉ huy trận
Đống Đa, Nghiên cứu lịch sử số l54, 1-2-1974.
Năm 1996, ông Nguyễn Q Thắng trong tập sách Quảng Nam đất nước và nhân vật lại
cho rằng đô đốc Long chính là Lê Văn Long người làng Phú Xuân Trung, huyện Lệ
Dương, châu Thăng Hoa (nay thuộc Trường Xuân, thị xã Tam Kỳ tỉnh Quảng Nam).
Nguyễn Q Thắng viết “trong trận Hà Hồi này, đô đốc Lê Văn Long chỉ huy đạo quân
phía nam thần tốc tiêu diệt đồn Khương Thượng vào mờ sáng ngày mùng 5
(30-l-1789) trận đánh quyết định xảy ra tại làng Ngọc Hồi mà cha con ông đều có
mặt từ lúc nổ súng lệnh” (tr.170). Căn cứ tư liệu của ông Thắng là bản sao sắc
phong chữ Hán phiên âm như sau:
“Sắc!
Thăng Hoa phủ, Lệ Dương huyện, Phú Xuân Trung xã, Lê Văn Long lịch tùng chiến
trận cụ hữu cần lao, kim bổ võ tướng hữu quân sai bác quân vụ.
Nhược tiếp thành sự vụ sở sự giải đãi phất cần hữu quân hiến tại khâm tai cố.
Sắc.
Quang Trung nhị niên nhị nguyệt sơ ngũ nhật” (tr.171).
Nam 1818 Lê Văn Long được khâm sai Lê Chất giao quyền trông coi trấn Sơn Nam
Hạ.
Theo chúng tôi đây là tư liệu quý rất đáng tham khảo, song với bản sắc sắc
phong như trên thì chưa đầy đủ căn cứ để khẳng định Lê Văn Long là đô đốc Long
trong chiến dịch Ngọc Hồi - Đống Đa, tuy nhiên cũng không loại trừ khả năng hai
tên người này có thề là một. Xin ghi lại đây để bạn đọc tham khảo. Điều khẳng
định của chúng tôi là đô đốc Đặng Tiến Đông là một tướng chỉ huy của đạo quân
tiến vào Nhân Mục, Đống Đa).
Đạo quân thứ ba do đại đô đốc Bảo chỉ huy. Đây là một lực lượng
cơ động gồm kỵ binh Và tượng binh, đặc biệt có đội voi chiến mạnh (Đại Nam
chính biên liệt truyện sơ tập chép đại đô đốc Bảo “chuyên đốc tượng quân”). Đạo
quân này đi theo con đường qua Sơn Minh (Ứng Hòa, Hà Nội) tiến ra Đại Áng
(Thường Tín, Hà Nội) ở phía tây - nam đồn Ngọc Hồi. Đây là một con đường nhỏ
nằm vào khoảng giữa hướng tiến công chủ yếu và thứ yếu gần đường tiến quân của
đạo quân chủ lực. Đạo quân của đại đô đốc Bảo có nhiệm vụ “tiếp ứng cho cánh
hữu” (Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập, sách đã dẫn, q 30, tr 33;Hoàng Lê
nhất thống chí, sách đã dẫn, tr.362), nghĩa là sẵn sàng phối hợp với đạo quân
chủ lực để đối phó kịp thời với mọi tình huống và chủ yếu là bất ngờ tham dự
vào trận quyết chiến tiêu diệt đồn Ngọc Hồi, giành thắng lợi có ý nghĩa quyết
định.
Đạo quân thứ tư là đạo quân thủy do đô đốc Nguyễn Văn Tuyết chỉ
huy. Đạo quân này vượt biển vào sông Lục Đầu, tiến công tiêu diệt lực lượng
quân dịch đóng ở Hải Dương và sẵn sàng “tiếp ứng dưới mặt đông” (Đại Nam chính
biên liệt truyện sơ tập, sách đã dẫn, q 30, tr 33; Hoàng Lê nhất thống chí,
sách đã dẫn, tr.362), nghĩa là uy hiếp sườn phía đông đạo quân chủ lực của Tôn
Sĩ Nghị đóng ở bờ sông Nhị, phối hợp với hướng tiến công chủ yếu và thứ yếu
đánh vào Thăng Long.
Đạo quân thứ năm do đại đô đốc Lộc chỉ huy cũng là đạo quân thủy
và cũng vượt biển tiến vào sông Lục Đầu. Quang Trung biết rằng: “Người Thanh
nghe ta ra Bắc, tất sẽ tập trung hết quân tinh nhuệ xuống phía Nam giữ Thượng
Phúc, Phú Xuyên, còn một dải Kinh Bắc phòng ngự ắt yếu. Ta sẽ xuất kỳ bất ý
chia quân chẹn ở Thái Nguyên, Lạng (Sơn)...” (Lê Trọng Hàm, Minh đô sử, sách
chữ Hán, bản chép tay của Viện sử học (ký hiệu H.V. 285), tập 19, q. 44. Bộ sử
này gồm 100 quyển chép thành 48 tập, hiện thiếu 4 tập, còn 44 tập với khối
lượng trên dưới 3.865 tờ giấy bản. Tác phẩm có nhiều nhược điềm như bố cục và trình
bày lộn xộn, phương pháp biên soạn chưa thật khoa học, một số sự việc thiếu
chính xác. Giá trị chủ yếu của tác phẩm là đã tập hợp được một khối lượng tư
liệu khá lớn khai thác từ nhiều nguồn như chính sử, dã sử, gia phả, truyền
thuyết, thơ văn, ... Riêng về phong trào Tây Sơn, tác giả sưu tầm được nhiều
tài liệu không thấy trong những bộ sử khác, tiếc rằng nhiều chỗ tác giả không
ghi rõ xuất xứ để tra cứu, xác minh. Vì vậy khi viết chương này, chúng tôi có
sử dụng một số tài liệu của Minh đô sử nhưng với thái độ dè dặt. Xin tham khảo
thêm bài giới thiệu của cụ Trần Văn Giáp, Minh đô sừ và tác giá của nó, trong
Nghiên cứu lịch sử số 78 tháng 9-1965).
Đạo quân của đại đô đốc Lộc là một mũi vu hồi, bí mật tiến vào
sau lưng địch, chặn đường rút chạy của quân Thanh từ Thăng Long về Quảng Tây.
Từ Lục Đầu, đạo quân này nhanh chóng tiến lên vùng Lạng Giang, phượng Nhãn, Yên
Thế chắn ngang và bịt kín đường tháo chạy của địch.
Theo phiên chế của quân đội Tây Sơn lúc đó, đạo quân chủ lực gồm
tiền quân, trung quân, hậu quân; đạo quân thứ hai và thứ ba gồm hữu quân, đạo
quân thứ tư và thứ năm gồm tả quân. Ba đạo quân trên làm nhiệm vụ mũi tiến công
chính diện, mũi thọc sâu bất ngờ và lực lượng phối hợp, đảm đương cả hai hướng
tiến công chủ yếu và thứ yếu Đây cũng là những lực lượng giữ vai trò quyết định
trong toàn bộ cuộc tập kích chiến lược, có nhiệm vụ thực hành những trận quyết
chiến chiến lược.
Với năm đạo quân bố trí như trên, Quang Trung tạo thành một thế
trận hoàn chỉnh, gồm nhiều tầng nhiều lớp, có trọng điểm, kết hợp chặt chẽ giữa
tiến công chính diện với thọc sâu, bao vây vu hồi, có hướng chủ yếu, hướng thứ
yếu có lực lượng dự bị mạnh. Binh lực được sử dụng một cách khoa học nhằm tập
trung lực lượng cho những hướng tiến công chủ yếu và quan trọng, nhằm phát huy
cao độ tính năng và hiệu suất chiến đấu của từng binh chủng. Kế hoạch phản công
mưu lược, tài tình đó là một nhân tố căn bản nữa bảo đảm cho thắng lợi của cuộc
chiến đấu sắp tới.
Một ngày cuối tháng chạp năm Mậu Thân, Quang Trung mở tiệc khao
quân coi như ăn Tết Nguyên đán trước. Trong buổi lễ bừng bừng khí thế chống xâm
lăng đó, một lần nữa Quang Trung kêu gọi quân sĩ: “Nhà Thanh từ vua Càn Long
lên ngôi đến nay, luôn luôn mưu toan khuếch trương bờ cõi, đã chiếm phía Tây,
lại toan lấn phía Nam. Sự mất còn của nước ta là quyết ớ định ở trận này”. Vị
thống soái 36 tuổi lừng danh đó tuyên bố trước ba quân ý chí sắt đá quyết tâm
gang thép của cả dân tộc ta là phải đạp bằng mọi khó khăn, gian khổ, không tiếc
hy sinh, quét sạch giặc ngoại xâm “làm cho quân chó Ngô từ nay về sau không dám
có ý tưởng điên cuồng muốn chiếm lấy đất nước làm quận huyện của chúng nữa”
(Minh đô sử, sách đã dẫn, sách 19, q. 44). Sau khi trao nhiệm vụ cho các đạo
quân, Quang Trung tuyên bố với các tướng soái: “Nay hãy làm lễ ăn Tết Nguyên
đán trước, đợi đến sang xuân ngày mổng 7 vào thành Thăng Long sẽ mở tiệc lớn.
Các ngươi hãy ghi nhớ lấy lời ta nói xem có đúng thế không?” (Đại Nam chính
biên liệt truyện sơ tập, sách đã dẫn, q. 30, tr.33).
Sau 35 ngày - kể từ ngày 25 tháng 10 một đến ngày 30 tháng chạp
Năm Mậu Thân (ngày 22-12-1788 đến 25-l-1789) vừa hành quân, vừa nghiên cứu, vừa
chuẩn bị các mặt, Quang Trung đã đưa quân đội Tây Sơn cùng với toàn thể nhân
dân ta tiến lên một lòng đoàn kết quyết chiến quyết thắng với quân thù, giành
và giữ vững độc lập tự do cho Tổ quốc.
*
**
Đêm giao thừa kết thúc năm cũ, đón chào năm mới đã đến.
Tại cung Tây Long bên bờ sông Nhị, Tôn Sĩ Nghị cùng bọn tướng
soái quân Thanh đang mở “yến tiệc hát xướng” (Thánh vũ ký, sách đã dẫn, q. 6,
tr.36b) để đón xuân và mừng “chiến thắng”. Trước đó, Lê Chiêu Thống cũng đã
dâng lên “quan đại soái của thiên triều” (Hoàng Lê nhất thống chí, sách đã dẫn,
tr.353) lễ vật nhiều gấp đôi lễ tết sứ thần sang phong vương. Khắp các doanh
trại, đồn lũy, quân địch đều chúi đầu vào những bữa chè chén phè phỡn hay cờ
bạc say mê. Bên kia biên giới, tại kinh thành nhà Thanh, theo lệnh vua Càn
Long, câu đối Tết dán ở cung Trùng Hoa năm đó đều lấy đề tài “Bình định An Nam”
và được sao lục gửi cho Tôn Sĩ Nghị xem (Đại Thanh lịch triều thực lục, sách đã
dẫn, q. 1318, tr.37a). Vua tôi, tướng tá, quân lính nhà Thanh đang ngây ngất
trong không khí “chiến thắng” và tết nhất.
Chính vào lúc đó - giữa đêm 30 tết - đạo quân chủ lực của Quang
Trung vượt sông Gián, mở màn cuộc đại phá quân Thanh. Tiền quân Tây Sơn bất ngờ
tiến công tiêu diệt đồn tiền tiêu của địch ở Gián Khẩu. Đồn này do một đội quân
Lê Chiêu Thống đóng giữ. Quân địch hoảng sợ, tan vỡ và bỏ chạy ngay từ đầu.
Quân Tây Sơn thừa thắng tiến lên, nhanh chóng tiêu diệt luôn các đồn quân Thanh
ở bờ bắc sông Nguyệt Quyết và Nhật Tảo. Những toán quân Thanh do thám “từ đằng
xa trông thấy bóng cũng chạy nốt” (Hoàng Lê nhất thống chí, sách đã dẫn,
tr.363). Quang Trung ra lệnh truy kích ráo riết. Quân Tây Sơn đuổi đến Phú
Xuyên (Hà Nội) thì bắt gọn được toàn bộ tàn quân và bọn lính do thám của địch,
“không để tên nào trốn thoát” (Hoàng Lê nhất thống chí, sách đã dẫn, tr.363).
Quân Tây Sơn đã tiến đến Phú Xuyên (cách Thăng Long trên 30 km,
tính theo đường xe lửa hiện nay là 34 km), phá tung gần hai phần ba tuyến phòng
thủ của địch mà quân Thanh từ đồn Hà Hồi trở ra vẫn không biết gì hết. Bằng lối
đánh bất ngờ, tiêu diệt gọn, truy kích triệt để, Quang Trung đã phong tỏa tin
tức, giấu kín được cuộc tiến công của mình để tiếp tục phát huy thời cơ, tận dụng
yếu tố bất ngờ.
Nửa đêm ngày mồng 3 Tết Ký Dậu (ngày 28-l-1789), quân Tây Sơn bí
mật bao vây đồn Hà Hồi (thuộc xã Hồng Phong, Thường Tín, Hà Nội). Đây là một
đồn quan trọng của quân Thanh cách Thăng Long khoảng 20 km.
Hà Hồi là một làng nằm bên đường thiên lý. Con đường giao thông
cổ này ở về phía đông và cách quốc lộ số 1 ngày nay khoảng 200 - 300 m (Vết
tích của con đường giao thông này còn rất rõ, có đôi chỗ bị xói lở hay đứt
quãng nhưng cũng còn nhiều đoạn dài rộng khoảng 3-4 m. Nhân dân địa phương đến
nay vẫn gọi là đường thiên lý hay đường dịch trạm hay đường cái quan. Từ ga Tía
(xã Thắng Lợi, Thường Tín, Hà Nội, đến Bình Vọng (xã Bạch Đằng, Thường Tín, Hà Nội),
đường thiên lý chạy gần song song với quốc lộ số 1, cách khoảng 200-300 m).
Trạm Hà Hồi là một trạm dịch trên đường thiên lý ở về phía bắc làng (Nền trạm
dịch đó đến nay vẫn còn. Đấy là một khu đất cao nằm sát phía đông đường thiên
lý. Nhà hộ sinh của xã Hồng Phong xây dựng trên khu đất này). Đồn quân Thanh
đóng trên một khu đất cao ở phía nam làng, sát bên đường thiên lý. Ở đây, quân
địch không xây đắp chiến lũy, công sự mà chỉ dựa vào địa hình và làng mạc để
lập doanh trại trú quân. Đồn Hà Hồi chiếm lĩnh một vùng đất tương đối cao, phía
bắc dựa vào xóm làng, phía nam có thể khống chế con đường thiên lý từ trong ra.
Theo kế hoạch của Quang Trung, khoảng nửa đêm, quân Tây Sơn lặng
lẽ vây chặt đồn trại của địch rồi bắc loa gọi hàng. Khắp bốn mặt đồn, “tiếng
quân lính luân phiên nhau dạ ran để hưởng ứng, nghe như có hơn vài vạn người”
(Hoàng Lê nhất thống chí, sách đã dẫn, tr.363). Quang Trung chỉ sử dụng một bộ
phận của đạo quân chủ lực, nhưng bằng hành động bí mật, bất ngờ, kết hợp bao
vây uy hiếp dữ dội với biện pháp gọi hàng, làm cho quân địch “ai nấy rụng rời,
sợ hãi, liền xin ra hàng” (Hoàng Lê nhất thống chí, sách đã dẫn, tr.363).
Toàn bộ quân địch trong đồn từ chỗ giật mình hoảng hốt đến
choáng váng khiếp sợ và đành phải bó tay đầu hàng. Chỉ trong chốc lát và không
tốn một chiến sĩ, một mũi tên hòn đạn, quân Tây Sơn đã diệt gọn một đồn quan trọng
của địch, thu được rất nhiều vũ khí, lương thực.
Sau đó, Quang Trung tạm đóng quân ở phía nam Hà Hồi, trên một
khu đất cao ráo, rộng rãi gồm cánh đồng Cung và những cánh đồng xung quanh.
Riêng cánh đồng Cung rộng khoảng hơn 20 mẫu Bắc Bộ (Theo tài liệu địa chính của
Ủy ban hành chính xã Hồng Phong), nằm bên đường thiên lý, thuộc địa phận thôn
Hòa Lương xã Hồng Phong, Thường Tín, Hà Nội). Đây là vị trí tập kết của đạo
quân chủ lực trước khi bước vào trận quyết chiến tiêu diệt đồn Ngọc Hồi. Chính
tại nơi đây, Quang Trung đã tìm hiểu tỉ mỉ sự bố phòng của địch, theo dõi những
hành động mới của kẻ thù để bổ sung và hoàn chỉnh hơn nữa kế hoạch công đồn,
đồng thời tiến hành những khâu chuẩn bị cuối cùng nhàm giành thắng lợi oanh
liệt, triệt để cho trận chiến đấu quyết định sắp tới.
*
**
Hồi cuối thời Lê đầu thời Nguyễn, Ngọc Hồi là một thôn thuộc xã
Vĩnh Trung, tổng Cổ Điển, huyện Thanh Trì, phủ Thường Tính (Theo bài văn bia
Hương ước bi ký lập năm Cảnh Hưng thứ 5 (1745) tại đình làng Ngọc Hồi và Đồng
Khánh địa dư chí lược (q. 5, tỉnh Hà Nội)). Ngày nay, thôn Ngọc Hồi thuộc xã
Ngọc Hồi, huyện Thanh Trí, Hà Nội, nằm bên quốc lộ số 1, sát phía nam sông Tô
Lịch (Trước là xã Việt Hưng, gồm 3 thôn: Ngọc Hồi, Yên Kiện, Lạc Thị; gần đây
đổi tên là xã Ngọc Hồi).
Ngọc Hồi là một làng thành lập từ lâu đời. Vào đời Trần, Ngọc
Hồi là một ấp thuộc xã Vĩnh Khang và đã có ba anh em họ Lỗ có công trong cuộc
kháng chiến chống Nguyên. Đình làng Ngọc Hồi thờ ba người anh hùng địa phương
đó (Ở đình Ngọc Hồi còn giữ được bản ngọc phả do Nguyễn Bính soạn vào năm Hồng
Phúc thứ nhất (l572) và sao chép lại vào năm Vĩnh Hựu thứ 5 (1739) và Thành
Thái thứ nhất (1889)). Xóm làng Ngọc Hồi nằm về phía bắc, dọc theo bờ nam sông
Tô Lịch (Ngọc Hồi có 6 xóm: Đò, Vậy, Thông, Ba, Đình, Giếng). Các xóm hiện nay
đều ở về phía tây quốc lộ số 1 nhưng trước đây có xóm ở cả về phía đông quốc lộ
nữa. Bao quanh thôn xóm có “lũy làng”. Lũy đắp bằng đất, phía trên trồng tre,
vừa để bảo vệ thôn xóm, vừa để ngăn nước sông Tô Lịch tràn vào làng về mùa
nước. Nhiều đoạn “lũy làng” đó hiện nay vẫn còn. Phía nam xóm làng Ngọc Hồi là
một cánh đồng rộng trên 400 mẫu Bắc Bộ, phía tây giáp thôn Yên Kiện (xã Ngọc
Hồi), phía nam giáp thôn Xuân Nê (xã Ái Quốc), Nhị Châu, Yên Phú (xã Liên Minh)
phía đông giáp thôn Thọ Am (xã Liên Minh, đều thuộc Thường Tín, Hà Nội). Cánh
đồng đó ngày nay gồm khu lò gạch đồng Người, đồng Xào, đồng Đồn (phía đông quốc
lộ) và đồng Bứng (phía tây quốc lộ).
Đồn Ngọc Hồi của quân Thanh được xây dựng trên cánh đồng phía
nam xóm làng, cách Thăng Long khoảng 14 km. Di tích của đồn lũy kiên cố hiện
nay không còn nhưng còn được ghi nhớ trong ký ức của nhân dân địa phương và để
lại dấu ấn trong một số tên đất ở vùng này như “đồng Đồn”, “nền Đồn”, “cây đa
Đồn”... “Đồng Đồn” là một cánh đồng hình tam giác ở sát phía đông quốc lộ số 1,
rộng khoảng 7 - 8 mẫu. Trên cánh đồng dó, về phía nam, có một khu đất cao hơn
khoảng 0,50 m so với những thửa ruộng xung quanh, hình chữ nhật, chiều dài
khoảng 20 m, chiều ngang khoảng 15 m. Đó là “nền Đồn”. Theo tập truyền của nhân
dân vùng Ngọc Hồi và các làng gần đó thì “đồng Đồn” là nơi xưa kia có đồn luỹ
của quân Thanh và “nền đồn” là di tích nền nhà của viên tướng chỉ huy. Gần “nền
Đồn”, về phía Đông Bắc, có một cây đa cổ thụ cũng mang tên “cây đa Đồn” (cây đa
này mới bị đổ gần đây) (Hồ sơ khảo sát của khoa Sử trường Đại học Tổng hợp phối
hợp với Sở Văn Hóa Hà Nội). Tất nhiên đồn lũy quân Thanh không chỉ giới hạn
trong “đồng Đồn” 7 - 8 mẫu mà bao quát cả cánh đồng làng Ngọc Hồi. “Đồng Đồn”
mà nhân dân còn ghi nhớ có lẽ là bộ phận quan trọng nhất trong phạm vi đồn lũy
và “nền Đồn” có thể là sở chỉ huy của đề đốc Hứa Thế Hanh.
Đồn Ngọc Hồi chiếm lĩnh một địa hình tương đối cao và giữ một vị
trí trọng yếu có thể khống chế con đường thiên lý, ngăn chặn cuộc tiến công của
quân Tây Sơn từ Tam Điệp ra, bảo vệ cửa ngõ phía nam Thăng Long.
Vào đời Lê, con đường thiên lý từ trong Nam ra, qua trạm Hà Hồi,
chạy gần song song với quốc lộ 1 ngày nay lên chợ Bằng (Bình Vọng, xã Bạch
Đằng) đến Quán Gánh rồi men theo bờ phía đông sông Tô Lịch vòng qua các làng
Duyên Trường, Hạ Thái (xã Duyên Thái, Thường Tín, Hà Nội), Đông Phù (xã Đông
Mỹ, Thanh Trì, Hà Nội), Tương Trúc, Tư Khoát, Lưu Phái (xã Ngũ Hiệp, Thanh Trì,
Hà Nội) (Chợ Duyên Trường (tên nôm là chợ Giường) vốn là một trạm dịch
đời Lê, cũng ở về phía đông sông Tô Lịch. Huyện lỵ Thanh Trì, trước ở xã Quỳnh
Đô, sau dời về Đông Phù Liệt nằm trên đường thiên lý cũ đều ở phía đông sông Tô
Lịch. Tập Hồng Đức bản đồ ký hiệu A.2499, Thư viện Khoa học xã hội) có thể coi
là một tập hợp bản đồ đời Lê cho đến đời Tây Sơn, còn ghi lại một số bản
đồ đường giao thông, trong đó đoạn đường thiên lý ở vùng này cũng vẽ vòng về
phía đông sông Tô Lịch qua Tương Trúc đến chợ Bằng (tờ 31b-32a)). Từ đây, đường
thiên lý cũ lại trùng với quốc lộ số 1 ngày nay, qua Văn Điển đến cầu Tiên thì
theo đường qua đầm Sét, Hoàng Mai lên chợ Mơ, qua cửa ô Yên Ninh (sau đối là ô
Thịnh Yên, tức là ô Cầu Dền), vào thành Thăng Long. Từ Hà Nội lên Thăng Long,
đường thiên lý qua các trạm dịch Duyên Trường, Hà Mai, Hà Trung (Sử quán triều
Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, bản dịch, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội,
1971, t. III, tr.187-190). Riêng đoạn đường thiên lý từ Quán Gánh đến Lưu Phái,
vòng về phía đông sông Tô Lịch, về sau cũng được đắp thẳng qua sông Tô Lịch như
quốc lộ số 1 hiện nay (qua sông Tô Lịch ở cầu Thượng Đình và cống Ngọc Hồi)
(Hiện nay chúng tôi chưa xác định được chắc chắn đường thiên lý được uốn thẳng
như vậy từ năm nào. Chỉ biết rằng vào đầu đời Nguyễn, đường thiên lý đã được
đắp thẳng qua sông TÔ Lịch như quốc lộ số 1 hiện nay, còn cầu và cống xi-măng
thì dĩ nhiên mới xây dựng sau này. Vì vậy sách Quốc triều dịch lộ biên soạn vào
đầu đời Gia Long, không nhắc đến trạm dịch Duyên Trường nữa). Từ đó, đường
thiên lý cắt ngang qua làng Ngọc Hồi. Đoạn đường vòng về phía đông sông Tô
Lịch, chạy qua phía bắc làng Ngọc Hồi, không còn giữ vai trò đường thiên lý
nhưng vẫn là một đoạn đường giao thông quan trọng ở vùng này. Nhà trạm Duyên
Trường không còn nữa, nhưng chợ Giường (tên nôm của làng Duyên Trường) vẫn là
một chợ lớn của phủ Thường Tín xưa.
Ngoài đường thiên lý chạy qua làng Ngọc Hồi, còn có một con
đường men theo bờ nam sông Tô Lịch, nhân dân địa phương thường gọi là “đường
cái cao”. Từ Ngọc Hồi, con đường này qua các làng ven sông như Yên Kiện, Lạc
Thị, Ích Vĩnh, Quỳnh Đô, rồi nối với đường thiên lý ở Văn Điển. Phía đông, cách
Ngọc Hồi không xa, khoảng 2 km, là đê sông Nhị, đồng thời cũng là một con đường
bộ lên Thăng Long.
Với vị trí và những đường giao thông như trên, quân Thanh ở đồn
Ngọc Hồi, mặt trước phía nam có thể kiểm soát và khống chế chặt chẽ con đường
thiên lý trong ra, sau lưng (phía bắc) có nhiều đường - đường thiên lý, “đường
cái cao”, đường đê sông Hồng - bảo đảm sự liên hệ và chi viện kịp thời của đại
bản doanh và quân chủ lực của Tôn Sĩ Nghị ở Thăng Long. Ngọc Hồi là một đồn lũy
kiên cố được Tôn Sĩ Nghị đặc biệt chú ý. Đây là vị trí then chốt trong hệ thống
phòng thủ của địch ở phía nam Thăng Long và cũng là sở chỉ huy của đề đốc Hứa
Thế Hanh - tướng chỉ huy mặt trận này. Tại đồn Ngọc Hồi, quân Thanh có đắp lũy
đất để phòng vệ. Di tích của lũy đất đó hiện nay không rõ và chưa xác minh được
nên chưa có căn cứ vững chắc để khôi phục quy mô, cách kiến trúc đồn lũy và sự
bố phòng của địch (Phía đông nam cánh đồng Đồn có một gờ đất chạy men theo bờ
đầm Thọ Am. Gờ đất này so với cánh đồng Đồn chỉ cao hơn độ vài tấc so với dọc
ruộng sâu (đầm Thọ Am) cao hơn độ dăm tấc. Nhiều cụ già địa phương cho rằng đó
chỉ là bờ đầm Thọ Am nay sử dụng như bờ ruộng. Nếu quân Thanh lợi dụng đầm Thọ
Am như một con hào tự nhiên thì bờ đầm cũng có thể được sử dụng như một đoạn
chiến lũy. Nhưng đó chỉ là một bộ phận trong hệ thống phòng vệ của địch).
Nhưng với tinh thần phòng ngự tạm thời trong những ngày tết, có
lẽ quân Thanh chỉ đắp một lũy đất bình thường bao quanh đồn hoặc những đoạn
chiến lũy bảo vệ những hướng xung yếu. Hướng nam là hướng phòng ngự chủ yếu của
địch. Chiến lũy phòng vệ có lẽ cũng tập trung vào hướng này. Ở đây có cửa lũy
phía nam là nơi quân địch canh phòng, bảo vệ cẩn mật nhất (Đại Nam chính biên
liệt truyện sơ tập, q. 30, tr.34) chép: quân Tây Sơn từ Hà Hồi tiến lên đánh
đồn Ngọc Hồi, “đã phá được cửa luỹ” rồi đột nhập vào đồn. Minh đô sử (q. 19)
cũng có nói đến “cửa lũy” này). Trên mặt chiến lũy chúng đặt nhiều đại bác, tạo
nên một hỏa lực mạnh. Phía ngoài chiến lũy, quân Thanh còn bố trí một bãi
chướng ngại khá phức tạp và nguy hiểm. Chúng cắm chông sắt (Việt sử thông giám
cương mục (q. 47, tr.41, bản dịch đã dẫn, t. 20, tr.62) chép: “Bốn mặt đồn lũy,
quân Thanh đều cắm chông sắt”), làm cạm bẫy và đặt địa lôi (Đại Nam chính biên
liệt truyện sơ tập, sách đã dẫn, q. 30, tr.34). Bãi chướng ngại này bao quanh
đồn nhưng cũng tập trung chủ yếu vào hướng nam. Riêng mặt đông - nam có đầm Thọ
Am, trước đây khá sâu. Hẳn quân địch đã sứ dụng cái đầm này như một đoạn hào
che chở một mặt đồn lũy.
Phía trong lũy, chúng bố trí doanh trại của quân lính và sở chỉ
huy của đề đốc Hứa Thế Hanh.
Quân địch đã xây dựng đồn Ngọc Hồi thành một cứ điểm phòng ngự
bao gồm bãi chướng ngại ở ngoài cùng rồi đến chiến lũy và phía trong là doanh
trại. Sức phòng thủ mạnh và tính kiên cố của đồn lũy này là ở chỗ biết kết hợp
chặt chẽ giữa chướng ngại vật, chiến lũy với một hỏa lực khá lớn (gồm trận địa
địa lôi trong tuyến chướng ngại và trận địa đại bác trên mặt chiến lũy) và một
lực lượng phòng thủ rất mạnh.
Số quân Thanh đóng ở đồn Ngọc Hồi có khoảng 3 vạn quân tinh nhuệ
(Không có tài liệu nào ghi chép cụ thể số quân Thanh ở đồn Ngọc Hồi. Chỉ biết
rằng trong cuộc tiến công của quân Tây Sơn, gần như toàn bộ quân địch ở đây bị
tiêu diệt; một bộ phận bị tiêu diệt ở ngay đồn Ngọc Hồi, một bộ phận bị dồn vào
đầm Mực rồi bị tiêu diệt. Riêng số quân địch bị tiêu diệt ở đầm Mực đã “kể đến
hàng vạn” (Hoàng Lê nhất thống chí, sách đã dẫn, tr.364; Minh đô sử, q.44),
nghĩa là ít ra cũng phải vài vạn. Căn cứ vào số quân địch bị tiêu diệt đó, có
thể ước đoán số quân Thanh ở đồn Ngọc Hồi có khoảng 3 vạn quân. Quân số đó cũng
phù hợp với thành phần bộ chỉ huy của địch gồm có một đề đốc (Hứa Thế Hanh) và
hai tổng binh (Thượng Duy Thăng, Trương Triều Long)). Số quân này lấy từ trong
đạo quân chủ lực của Tôn Sĩ Nghị. Thành phần quân đội gồm bộ binh và kỵ binh,
trong đó có một đội kỵ binh thiện chiến. Quân lính được trang bị tốt. Ngoài
gươm, đao, giáo, mộc, cung tên..., đặc biệt có nhiều hỏa khí gồm: địa lôi, súng
tay, đại bác và ống phun hỏa mù. Quân địch còn được phân phát những tấm lá chắn
bằng da trâu sống để sẵn sàng chống lại hỏa hổ của quân Tây Sơn (Điều thứ 5
trong tám điều quân luật của Tôn Sĩ Nghị, xem Hoàng Lê nhất thống chí, sách đã
dẫn, tr.334).
Trong bốn đạo quân Thanh, đạo quân chủ lực của địch gồm quân
lính Quảng Đông, Quảng Tây do Tôn Sĩ Nghị trực tiếp chỉ huy, dưới có đề đốc Hứa
Thế Hanh giữ chức phó tướng. Trong bộ chỉ huy đạo quân này còn có tổng binh
Thượng Duy Thăng, phó tướng Khánh Thành đốc xuất quân lính Quảng Tây và tổng
binh Trương Triều Long, Lý Hóa Long đốc sưuất quân lính Quảng Đông (Ngụy
Nguyên, Thánh vũ ký, sách đã dẫn, q. 6, tr.35b). Trương Triều Long là tướng chỉ
huy quân tiên phong và Thượng Duy Thăng là tướng chỉ huy quân tả dực cửa Tôn Sĩ
Nghị. Trong số năm tướng lĩnh cao cấp thuộc đạo quân chủ lực của mình, Tôn Sĩ
Nghị đã điếu đến ba người về đồn Ngọc Hồi và mặt trận phía Nam là: đề đốc Hứa
Thế Hanh, tổng binh Trương Triều Long và Thượng Duy Thăng. Điều đó càng chứng
tỏ sự quan tâm đặc biệt của Tôn Sĩ Nghị đối với mặt trận phía Nam mà đồn Ngọc
Hồi giữ vai trò quyết định.
Đồn Ngọc Hồi là nơi tập trung nhiều quân tinh nhuệ và tướng giỏi
của Tôn Sĩ Nghị. Với vị trí then chốt của nó, nhiệm vụ của cứ điểm này là sẵn
sàng chi viện cho các đồn phía Nam khi bị tiến công và phải chặn đứng rồi đánh
lui mọi cuộc tiến công của quân Tây Sơn. Tôn Sĩ Nghị tin trung quân Tây Sơn sau
khi đã phải đánh phá nhiều đồn binh từ Gián Khẩu đến Hà Hồi, thì khó có đủ sức
đánh vào một đồn lũy mạnh và kiên cố như đồn Ngọc Hồi. Hơn nữa, nếu đồn Ngọc
Hồi bị tiến công thì quân chủ lực ở Thăng Long cũng có thể điếu động kịp thời
xuống tăng viện, đánh lui đối phương.
Đồn Ngọc Hồi được xây dựng trong khoảng tháng chạp năm Mậu Thân
(27-12-1788 đến 25-l-1789), nhưng được củng cố và tăng cường thêm nhiều trong
những ngày cuối năm đó và đầu năm sau (Theo Việt sử thông giám cương mục (q.
47, tr.41, bản dịch đã dẫn, t. 20, tr.61) thì khi quân Tây Sơn tiến ra Sơn Nam,
nghĩa là trong khoảng ngày mống 1, 2 tết, “Sĩ Nghị sai đề đốc Hứa Thế Hanh đem
quân tứ dực đi trước, chia đóng ở Hà Hồi và Ngọc Hồi để chống cự lại”. Nhưng
theo Hoàng Lê nhất thống chí (sách đã dẫn, tr.351) thì trước ngày 25 tháng
chạp, quân Thanh đã lập 3 đồn lũy ở bớ bắc sông Nguyệt Quyết ở Nhật Tảo và Ngọc
Hồi “rồi chia quân ra đóng giữ”. Điều này hợp lý hơn và phù hợp với tài liệu
nhà Thanh nhất là An Nam quân doanh kỷ yếu của Trần Nguyên Nhiếp).
Ngày 23 tháng chạp (ngày 18-l-1789) khi biết tin quân Tây Sơn
đang trên đường tiến ra Bắc, Tôn Sĩ Nghị hạ lệnh cho “đại quân sáng chiều tập
dượt để chuẩn bị tác chiến” và tăng thêm quân đóng giữ cho các đồn lũy (Trần
Nguyên Nhiếp, An Nam quân doanh kỷ yếu, sách đã dẫn).
Ngày mồng 1 tháng giêng năm Kỷ Dậu (ngày 26-1-17S9), Tôn Sĩ Nghị
lại “phái thêm quân sĩ chia nhau đi tiếp ứng các đồn ở trên bốn ngả đường để
phòng giữ và vạch rõ kế hoạch cho các nơi ứng cứu nhau như thế nào” (Trần
Nguyên Nhiếp, An Nam quân doanh kỷ yếu, sách đã dẫn).
Tuy có lo đề phòng trước cuộc tiến công của quân Tây Sơn vào dịp
Tết nhưng Tôn Sĩ Nghị vẫn rất chủ quan vì hắn đánh giá thấp lực lượng của đối
phương và quá tin tưởng vào sức mạnh của quân Thanh cùng với sự bố trí phòng
thủ quanh Thăng Long, nhất là hệ thống phòng thủ phía nam. Trên hướng này, “từ
cửa ô Thăng Long đến Hà Hồi (thuộc) Thượng Phúc, người Thanh đóng liền đồn lũy,
bắc súng đại bác, phía ngoài đồn thì đặt ngầm địa lôi, phòng bị rất vững” (Đại
Nam chính biên liệt truyện sơ tập, q. 30, tr.34). Từ Thăng Long đến Hà Hồi,
trên đoạn đường thiên lý dài khoảng 20 km này, ngoài đồn Hà Hồi, Ngọc Hồi, còn
có những đồn binh nhỏ đóng ở Bình Vọng (xã Bạch Đằng, Thường Tín, Hà Nội), Lưu
Phái (Thanh Trì, Hà Nội), Văn Điển (Thanh Trì, Hà Nội). Theo sự bố trí của địch
thì đồn Bình Vọng giữ vị trí như đồn tiền tiêu của Ngọc Hồi, còn đồn Lưu Phái,
Văn Điển là những đồn bảo vệ mặt sau của Ngọc Hồi và là những nhịp cầu liên hệ
với đại bản doanh của Thăng Long. (Những đồn này thấy nhắc đến trong những tài
liệu sau đây: đồn Bình Vọng trong Lê quý dật sử, đồn Lưu Phái trong Minh đô sử
(q. 44), đồn Văn Điển trong Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập (q. 31),
Nguyễn thị Tây Sơn ký. Những tài liệu trên và kết quả khảo sát thực địa chưa
cho phép xác định cụ thể vị trí, lực lượng và sự bố phòng của địch tại những
đồn binh này).
Sau khi đồn Hà Hồi bị tiêu diệt sáng ngày mồng 4 Tết (ngày 29-l-1789),
Tôn Sĩ Nghị nhận được tin cáo cấp của đồn Ngọc Hồi: “Quan quân ở đồn Hà Hồi đều
bị quân Tây Sơn đánh úp bắt hết cả. Ở đấy cách đồn Ngọc Hồi không xa, sớm chiều
thế nào cũng bị đánh tới” (Hoàng Lê nhất thống chí, sách đã dẫn, tr.365). Tin
sét đánh đó làm cho quân Thanh vô cùng hoảng hốt. Chúng nói với nhau: “Thật là
tướng ở trên trời rơi xuống, quân ở dưới đất chui lên” (Hoàng Lê nhất thống
chí, sách đã dẫn, tr.365). Bản thân Tôn Sĩ Nghị tuy có phòng bị trước, nhưng
cũng hết sức kinh ngạc trước lối đánh thần tốc của quân Tây Sơn. Khi được tin
cấp báo, hắn “rút kiếm chém xuống đất nói rằng: sao mà thần đến thế” (Minh đô
sử, sách đã dẫn, q . 44).
Tôn Sĩ Nghị cố trấn tĩnh để tìm cách đối phó. Trước hết, hắn ra
lệnh lập tức tăng viện cho đồn Ngọc Hồi. Lãnh binh Quảng Tây là Thang Hùng
Nghiệp (Minh đô sử (q. 44) chép là tổng binh Quảng Tây Thang Hùng Nghiệp) và
viên hàng tướng Tây Sơn là Phan Khải Đức được lệnh đem một đội quân “cần vương”
của Chiêu Thống xuống tăng cường lực lượng cho đồn Ngọc Hồi. Tôn Sĩ Nghị còn
đặc biệt phái 20 kỵ binh trong đội hầu cận của hắn theo Thang Hùng Nghiệp xuống
Ngọc Hồi với nhiệm vụ “trong khoảng chốc lát phải tiếp tục báo tin về ngay”
(Hoàng Lê nhất thống chí, sách đã dẫn, tr.365; Minh đô sử, q. 44).
Tôn Sĩ Nghị đã tập trung tất cả sự chú ý của mình vào mặt trận
phía Nam. Hắn muốn trực tiếp theo dõi và nắm chắc diễn biến tình hình của mặt
trận xung yếu này để sử dụng một cách kịp thời và có hiệu quả nhất đạo quân chủ
lực mà hắn vẫn giữ nguyên vẹn trong tay.
Tối ngày mồng 3, sáng mồng 4 Tết, đạo quân chủ lực của Quang
Trung đã tập kết đầy đủ tại cánh đồng Cung ở phía nam Hà Hồi. Cũng vào khoảng
thời gian đó, theo kế hoạch hiệp đồng đã vạch ra ở Tam Điệp, đạo quân của đại
đô dốc Bảo cũng tập kết tại Đại Áng xã Thanh Hưng, Thường Tín, Hà Nội ở phía
tây - nam Ngọc Hồi.
Đạo quân của đại đô đốc Bảo đi theo con đường núi ra Vân Đình
(Ứng Hòa, Hà Nội), rồi theo con đường ngày nay là quốc lộ 22 ra ngã tư Vác (xã
Dân Hòa, Thanh Oai, Hà Nội) và từ đó, đi theo con đường qua các làng Canh Hoạch
(xã Dân Hòa), Tri Lễ (xã Tân ước), Úc Lý (xã Thạch Vân), Dư Dụ (xã Thanh Thủy,
đều thuộc Thanh Oai, Hà Nội) rồi qua cầu Sấu trên sông Nhuệ đến Đại Áng. Đây là
một con đường giao thông nhỏ ở địa phương đã có từ lâu đời và đến nay vẫn còn
được sử dụng. Con đường này không quan trọng lắm và không cách xa con đường
thiên lý - con đường hành quân của đạo quân chủ lực - bao nhiêu. Trục vận động
và địa điểm tập kết thể hiện rõ ý định của Quang Trung sử dụng đạo quân của đại
đô đốc Bảo như một lực lượng tiếp ứng cho đạo quân chủ lực. Đạo quân này sẵn
sàng tiếp ứng cho đạo quân chủ lực khi cằn thiết trên hướng tiến công chủ yếu,
nhất là trong trận tiến công tiêu diệt đồn Ngọc Hồi sắp tới. Trên đường vận
động của đạo quân này lại không có qua một đồn lũy nào của địch - của quân
Thanh cũng như của quân Lê Chiêu Thống - điều đó càng bảo đảm sự an toàn, bí
mật và bất ngờ cho đội quân tiếp ứng (Trước đây có ý kiến cho Đại Áng là một vị
trí đóng quân của quân Thanh. Chúng tôi hoàn toàn không tìm thấy căn cứ trong
thư tịch và tại thực địa về điều khẳng định này).
Tại Đại Áng, quân Tây Sơn đóng quân trên một khu đất cao ráo ở
phía nam làng gọi là cánh đồng Rền. Hiện nay, đó là một cánh đồng trồng màu
rộng khoảng trên 11 mẫu, cao hơn hẳn những thửa ruộng xung quanh và có độ cao
(so với mực nước biển) là 5 m (Theo hồ sơ khảo sát tại thực địa và tài liệu địa
chính của Ủy ban hành chính xã Thanh Hưng).
Quang Trung quyết định sử dụng đạo quân của đại đô đốc Bảo vào
trận công phá và tiêu diệt đồn Ngọc Hồi. Sự phối hợp hai đạo quân - đạo quân
chủ lực và đạo tiếp ứng - đã cho phép Quang Trung tạo nên một ưu thế binh lực
tương đối so với quân địch (Toàn bộ quân Tây Sơn tập kết ở Tam Điệp có trên 10
vạn, chia làm năm doanh. Đạo quân chủ lực của Quang Trung gồm ba doanh (tiền,
trung, hậu) có khoảng trên nửa số quân. Đạo quân của đại đô đốc Bảo và đạo quân
của đô đốc Đông gồm một doanh, quãng vài vạn quân. Như vậy quân số cả hai đạo
quân Tây Sơn khoảng 6, 7 vạn trong lúc quân Thanh ở Ngọc Hồi có khoảng 3 vạn,
chưa kể số quân địch ở các đồn bảo vệ xung quanh như Bình Vọng, Lưu Phái, Văn
Điển...). Tuy vậy, trước mặt quân Tây Sơn là một đồn lũy phòng thủ kiên cố có
công sự bảo vệ, có binh lực tập trung, hỏa lực mạnh. Quân địch lại vừa được
tăng cường, sẵn sàng chống cự lại cuộc tiến công của quân Tây Sơn và quyết tâm
bảo vệ cứ điểm then chốt này. Phía sau, quân chủ lực của địch ở đại bản doanh
cách đấy không xa - 14 km - cũng đã ở trong tư thế sẵn sàng chi viện để đẩy lùi
và đánh tan cuộc tiến công của quân ta.
Binh pháp Tôn Tử, một bộ binh thư cổ nổi tiếng của Trung Quốc,
đã từng tổng kết kinh nghiệm chiến tranh và nêu lên thành một nguyên tắc quan
trọng: “Vây thành thì phải chuẩn bị rất lâu, vây đánh nhiều ngày, hao binh tổn
sức mà có khi không lấy được thành. Đó là một sự tai hại to”. Do đó “vây thành
mà đánh là kém nhất”. Trong trường hợp phải đánh thành, theo Tôn Tử, “sức ta
gấp mười địch thì vây nó, gấp năm thì đánh nó, gấp hai thì chia hai mặt đánh
nó” (Theo bản dịch của Hồ Chủ tịch, Phép dùng binh của ông Tôn Tử, tài liệu của
Viện Bảo tàng cách mạng). Trong điều kiện vũ khí và phương tiến chiến tranh
thời cổ - trung đại, đánh thành cũng như đánh đồn lũy thường phải kéo dài thời
gian và đòi hỏi có ưu thế binh lực tuyệt đối so với địch. Đối với đồn Ngọc Hồi,
trong tương quan lực lượng giữa ta và dịch lúc đó, khi yếu tố bất ngờ.không còn
nữa, thì rõ ràng lối đánh bao vây tiến công nhằm tiêu diệt gọn hay uy hiếp buộc
quân địch phải đầu hàng, khó có hiệu quả. Hơn nữa, kế hoạch chung lại yêu cầu
Quang Trung không những phải tiêu diệt đồn Ngọc Hồi mà còn phải tiêu diệt thật
nhanh, gọn để phối hợp nhịp nhàng với các hướng tiến công thọc sâu và bao vây
vu hồi khác. Có như vậy, hướng tiến công chủ yếu mới phát huy được tác dụng,
tạo thời cơ cho đạo quân của đô đốc Đông bất ngờ tiêu diệt đồn Đống Đa và làm
tê liệt hành động ứng cứu của đạo quân chủ lực của Tôn Sĩ Nghị.
Nhiệm vụ và yêu cầu chiến đấu đặt ra trước mắt vị tổng chỉ huy quân đội Tây Sơn
nhiều vấn đề phức tạp, khó khăn và hết sức khẩn trương. Từ trước khi xuất phát
ở Tam Điệp, với tầm mất nhìn xa thấy rộng của nhà quân sự thiên tài và kinh
nghiệm dày dạn của cuộc đời chiến đấu 17 năm liền (1771-1788), Quang Trung đã
vạch ra một kế hoạch phản công chiến lược hoàn chỉnh, chu đáo, trong đó có kế
hoạch tiêu diệt đồn Ngọc Hồi. Nhưng sau khi diệt đồn Hà Hồi, trong thời gian
ngắn ngủi trước khi bước vào trận quyết chiến ở Ngọc Hồi, Quang Trung đã tiếp
tục nghiên cứu thêm tình hình địch và giải quyết nhiều vấn đề mới để cụ thể hóa
kế hoạch tiến công cho đến từng chi tiết nhỏ, để tổ chức hiệp đồng chặt chẽ
giữa các đạo quân tham chiến và chuẩn bị cả những phương tiện để vượt qua
chướng ngại vật, chống lại hỏa pháo của địch...
Căn cứ vào sự bố trí lực lượng và diễn biến của trận đánh thì kế
hoạch công phá đồn Ngọc Hồi như sau:
- Đại bộ phận đạo quân chủ lực do Quang Trung đích thân chỉ huy
sẽ mở cuộc tiến công chính diện và mãnh liệt vào mặt nam đồn Ngọc Hồi. Toàn bộ
lực lượng tượng binh, đại bộ phận bộ binh .kỵ binh và hỏa pháo được tập trung
vào mũi tiến công quyết liệt này. Quân Tây Sơn không bao vây bốn mặt đồn lũy
của địch mà dồn tát cả sức mạnh của mình đột phá mặt phòng thủ phía nam của
địch rồi nhanh chóng đột nhập, phát triển vào bên trong. Nhiệm vụ cửa mũi tiến
công này là phá tan sự phòng thủ của địch ở đồn Ngọc Hồi và tiêu diệt một bộ
phận sinh lực địch ở đây. Số quân địch còn lại có nhiều khả năng phải tìm đường
tháo chạy về Thăng Long để hợp với quân chủ lực ở đại bản doanh tìm cách chống
đỡ. Quân Tây Sơn không bao vây và tiến công mặt bắc đồn lũy là nhằm mở sẵn
hướng tháo chạy đó cho quân địch. Mũi tiến công chủ yếu sau khi hoàn thành
nhiệm vụ diệt đồn sẽ tiến hành truy kích.
- Số quân địch từ Ngọc Hồi chạy về Thăng Long phải đi theo hoặc
con đường thiên lý qua đồn Lưu Phái, Văn Điển, hoặc đường đê sông Nhị, hoặc
“đường cái cao” theo bờ sông Tô Lịch qua Quỳnh Đô lên Văn Điển. Chúng có thể
tháo chạy theo một trong ba con đường đó mà thuận lợi nhất là con đường thiên
lý, cũng có thể tháo chạy tán loạn theo cả ba con đường. Quang Trung đã nghiên
cứu kỹ các đường giao thông và địa hình vùng phía bắc Ngọc Hồi. Ông quyết định
chọn đầm Mực - một cái đầm lớn, lầy lội, ở làng Quỳnh Đô làm trận địa tiêu diệt
bọn quân địch tháo chạy. Con “đường cái cao” tự nó đã dẫn quân địch vào cạm
bẫy. Một bộ phận quân Tây Sơn tách ra từ đạo quân chủ lực trước đó đã được lệnh
vu hồi vào phía sau đồn địch, bí mật bố trí sẵn ở một vị trí về phía Đông Bắc
Ngọc Hồi để ngăn chặn cả hai hướng - đường thiên lý và đê sông Nhị - buộc quân
địch phải chạy giạt về phía tây theo hướng đầm Mực. Để tiết kiệm binh lực,
Quang Trung chỉ sử dụng một lực lượng nhỏ - chủ yếu là bộ binh - nhưng biết
“nghi binh” đúng lúc, đúng chỗ nhằm hư trương thanh thế, uy hiếp tinh thần bọn
tàn quân địch, thực hiện nhiệm vụ vu hồi chặn địch.
- Đạo quân của đại đô đốc Bảo từ Đại Áng được lệnh bí mật tiến
lên, sẵn sàng chi viện cho đạo quân chủ lực nêu việc công phá đồn Ngọc Hồi gặp
khó khăn, nhưng nhiệm vụ chủ yếu là bày sẵn một thế trận bao vây tiêu diệt toàn
bộ tàn quân địch ở đầm Mực (làng Quỳnh Đô). Quang Trung muốn giữ bí mật đến
cùng đạo quân tiếp ứng của mình và môi khi tung vào chiến đấu sẽ tạo nên những
đòn bất ngờ khủng khiếp cho quân thù.
Trong kế hoạch tác chiến của Quang Trung, ba cánh quân Tây Sơn
phối hợp chặt chẽ với nhau trong một thế trận liên hoàn, trong đó mỗi cánh quân
đảm nhiệm một hướng tiến công, một nhiệm vụ cụ thể và kế tiếp hoàn thành nhiệm
vụ một cách liên tục, nhịp nhàng, ăn khớp với nhau. Quân địch dù có đề phòng
trước, sự bất ngờ về thời gian không còn tác dụng, nhưng vẫn bị bất ngờ trước
lối đánh lợi hại của ta.
Quân địch vừa bị đánh mặt trước vừa bị vu hồi bao vây mặt sau,
vừa bị đánh tan bằng một trận tiến công trận địa ác liệt không sao đương nổi,
vừa bị đẩy ra khỏi đồn lũy và bị tiêu diệt gọn trên đường vận động bằng những
mũi truy kích phía sau, mũi nghi binh chẹn đường phía Đông Bắc và một trận địa
bao vây tiêu diệt hết sức bất ngờ ở đầm Mực.
Quang Trung quyết định cuộc tiến công sẽ bắt đầu vào mờ sáng
ngày mồng 5 tháng giêng (ngày 30-1-1789) cùng một lúc với cuộc tiến công của
đạo quân đô đốc Đông vào đồn Đống Đa.
Cả ngày mồng 4, Quang Trung tiếp tục công việc chuẩn bị chu đáo
cho trận quyết chiến về tổ chức hiệp đồng chặt chẽ với dạo quân của đại đô đốc
Bảo. Trong ngày mồng 4, Quang Trung chỉ sử dụng những đội quân nhỏ mở những
trận đánh khiêu khích vào vùng ngoại vi Ngọc Hồi. Mục đích của những trận đánh
đó là để lôi cuốn hơn nữa sự chú ý của Tôn Sĩ Nghị vào mật trận phía nam; tăng
thêm sự bất ngờ cho đòn vu hồi thọc sâu của đô đốc Đông và đồng thời gây ra
tình trạng chờ đợi căng thẳng cho quân địch ở Ngọc Hồi.
Cũng trong ngày mồng 4, tại địa điểm tập kết ở phía nam Hà Hồi,
Quang Trung đã tổ chức ra đội quân xung kích làm nhiệm vụ đột phá vào trận địa
phòng thủ của địch. Đội quân xung kích này gồm 600 chiến sĩ tuyển lựa trong số
những nghĩa binh khỏe mạnh và dũng cảm nhất. Quang Trung còn chuẩn bị cả những
phương tiện chống lại hoả lực của địch. Đó là những tấm mộc lớn do ba tám ván
gỗ ghép chặt lại, phía ngoài quấn rơm ướt dày. Những tấm ván gỗ đó gồm ván
phản, cửa nhà, cửa đình cửa chùa... mà nhân dân địa phương đã tự nguyện đóng
góp giúp quân đội đánh thắng giặc ngoại xâm.
Dưới sự tổ chức và lãnh đạo trực tiếp của Quang Trung, quân Tây
Sơn ở hướng tiến công chủ yếu đã sẵn sàng bước vào trận quyết chiến chiến lược
với sự chuẩn bị chu đáo về mọi mặt và với quyết tâm đạp bằng mọi thử thách, hy
sinh.
*
**
Ngày mồng 4 Tết năm Kỷ Dậu (ngày 29-l-1789), quân Thanh ở Ngọc
Hồi và Thăng Long đã phải vội vàng chấm dứt “yến tiệc vui mừng” và được lệnh
chuyển sang tư thế sẵn sàng chiến đấu để đối phó với cuộc tiến công của quân Tây
Sơn từ Hà Hồi lên. Bọn chúng “vào hay cuộc vui chưa tàn, cơ trời đã đổ” (Hoàng
Lê nhất thống chí, sách đã dẫn, tr.365).
Đồn Ngọc Hồi chỉ cách Hà Hồi 6 km. Quân địch ở đây biết rằng
“sớm chiều thế nào cũng bị đánh tới” (Hoàng Lê nhất thống chí, sách đã dẫn,
tr.365). Vì chỉ có ba ngày đêm - từ ngày mồng 1 đến tối ngày mồng 3 Tết - quân
Tây Sơn đã tiến sâu vào trận tuyến phòng thủ của chúng gần 70 km, tiêu diệt
hàng loạt đồn binh từ Gián Khẩu đến Hà Hồi.
Nhưng trong cả ngày mồng 4, chúng chỉ thấy “quân lưu động của
giặc (tức quân Tây Sơn - TG) đến trước, hễ đánh trận nào thì thua luôn trận ấy”
(Việt Sử thông giám cương mục, q. 47, tr.41, bản dịch đã dẫn, t. XX, tr.62.
Những trận đánh trong ngày 4 còn được ghi chép trong Lê quý kỷ sự và Minh đô
sử. Những công trình nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống Thanh trước đây chưa
chú ý hoặc đã bỏ qua những đánh này). Đó là những trận tiến công nhỏ của quân
Tây Sơn vào các đồn tiền tiêu và ngoại vi của cứ điểm Ngọc Hồi. Nhưng trận đánh
đó cố gây cho quân địch một số thiệt hại. Chính Trần Nguyên Nhiếp bí thư riêng
của Tôn Sĩ Nghị, đã thừa nhận điều đó khi viết: “Một cuộc ác chiến kéo dài luôn
trong bốn ngày bốn đêm liền, quân ta (tức quân Thanh - TG) người thì bị đạn
người thì bị dao chém mỗi lúc một nhiều số lượng về sau không sao tính được
nữa” (Trần Nguyên Nhiếp, An Nam quân doanh kỷ yếu, sách đã dẫn). Nhưng mục đích
và tác dụng chủ yếu của những trận tiến công trong ngày mồng 4 là làm cho quân
địch phải dồn sức về mặt trận phía nam, phải chờ đợi một cách bị động, căng
thẳng, không hiểu được ý đồ của đối phương. Hứa Thế Hanh không dám chủ động
tiến công. Hắn chỉ phái đội quân của bù nhìn Lê Chiêu Thống do Phan Khải Đức
vừa đem xuống tăng viện cùng với những đội quân do Lê Duy Chi, Trần Quang Châu
chỉ huy, ra chống đỡ (Lê quý kỷ sự, Minh đô sử (q. 44), sách đã dẫn. Lê Duy Chi
là em Lê Chiêu Thống vừa được phong Dực Vũ công Trần Quang Châu giữ chức trấn
thủ Kinh Bắc nhưng vẫn lưu lại ở Thăng Long bảo vệ nhà vua. Đội quân của Lê Duy
Chi và Trần Quang Châu có thể mới từ Thăng Long xuống). Hắn ra lệnh cho quân
Thanh ở các doanh trại chỉ được “cầm cự, không được khinh động” (Minh đô sử,
sách đã dẫn. q.44).
Ngày mồng 4 trôi qua.
Quân địch có phần mệt mỏi, hoang mang. chúng mệt mỏi vì suốt một
ngày nơm nớp lo sợ cuộc tiến công lớn của quân Tây Sơn, chờ đợi hết sức căng
thẳng.
Chúng hoang mang vì không hiểu tại sao đối phương lại không tiến
công. Riêng Tôn Sĩ Nghị thì “cho rằng, đối với giặc (tức quân Tây Sơn - TG)
không có gì đáng lo ngại” (Lê quý kỷ sự, sách đã dẫn). Tư tưởng chủ quan, khinh
địch lại được dịp phục hồi trong đầu óc của “vị nguyên soái thiên triều” đó. Đề
đốc Hứa Thế Hanh thì dự định ngày mai sẽ mở cuộc phản công lớn. Hắn tuyên bố
“Đến sáng mai, hội quân lại đánh, xem ta quét sạch quân Nam” (Minh đô sử, sách
đã dẫn. q.44).
Ngày mồng 5 Tết Kỷ Dậu (ngày 30-l-1789), lúc trời còn chưa sáng,
bất thình lình quân Tây Sơn tiến công mãnh liệt vào mặt nam đồn Ngọc Hồi (Về
thời điểm bắt đầu tiến công đồn Ngọc Hồi, Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập
(q.30, tr.34) và Hoàng Lê nhất thống chí (tr.363) chép “mờ sáng ngày mồng 5”;
Việt sử thông giám cương mục (q.47. tr.41) chép “hồi trống canh năm”;
Minh đô sử (q.44) chép “đầu canh năm”).
Từ nơi tập kết ở phía nam Hà Hồi, đạo quân chủ lực bí mật xuất
phát vào khoảng nửa đêm. Trước lúc xuất trận, bước vào cuộc chiến đấu hết sức
ác liệt và có ý nghĩa quyết định này, Quang Trung một lần động viên quân sĩ,
nâng cao ý chí quyết chiến quyết thắng cho toàn quân. Quang Trung hạ lệnh
không mang theo lương thực, bao nhiêu quân lương bỏ lại hết để biểu thị quyết
tâm chiến đấu đến cùng, coi như lời thề: lần ra trận này phải thắng và chỉ được
thắng mà thôi (có sách chép: Quang Trumg sai đốt sạch hết quân lương (xem Quang
Trung, anh hùng dân ộc của Hoa Bằng, Nhà xuất bản Bốn Phương, Hà Nội, 1951,
tr.191). Ở đây chúng tôi dựa theo truyền thuyết phổ biến của nhân dân vùng Hà
Hồi và các làng xung quanh. Truyền thuyết vùng này đều nói Quang Quang Trung ra
lệnh bỏ lại lương thực, chứ không phải đốt hay thiêu hủy lương thực. Hành động
đó có thể có được và cũng thường thấy trong chiến tranh thời cổ - trung đại để
tỏ ý quyết chiến. Hơn nữa, số lương thực quán Tây Sơn mang theo cũng không
nhiều vì phải hành quân chiến đấu một cách thần tốc và một phần quan trọng cơ
sở hậu cần dựa vào sự ủng hộ tại chỗ của nhân dân). Quang Trung còn buộc khăn
vàng vào cổ và cưỡi voi ra trận trực tiếp chỉ huy và đốc chiến. Các đội ngũ
quân Tây Sơn đều giương cao lá cờ đỏ và quân sĩ đều chít khăn đỏ lên đầu, biểu
thị khí thế quyết chiến quyết thắng cao độ (Từ ngày khởi nghĩa năm 1771, nghĩa
quân Tây Sơn đã lấy cờ dỏ làm ngọn cờ chiến đấu của mình. Lá cờ đỏ đó được sử
dụng suốt trong quá trình phát triển và thắng lợi của phong trào Tây Sơn, kể cả
cuộc kháng chiến chống Thanh).
Quân Tây Sơn tràn qua đồn Bình Vọng, một đồn tiền tiêu của địch,
xông thẳng đến đồn Ngọc Hồi.
Mở đầu cuộc tiến công, Quang Trung tung đội tượng binh gồm hơn
100 voi chiến ra trận. Đây là một binh chủng xung phong, đột phá rất lợi hại.
Một con voi chiến lúc đó có thể chở được 13-14 người kể cả quản tượng (Christoforo
Borri, Relation de la nouvelle mission au royaume de la Cochinme, Revue
indochinoise, 1909). Ngoài cung nỏ, giáo, lao, tượng binh Tây Sơn còn được
trang bị thêm nhiều thứ hỏa khí như súng tay, hỏa hổ và đặc biệt đặt cả đại bác
trên mình voi. Trước khi sang xâm lược nước ta, Tôn Sĩ Nghị đã nghe nói về binh
chủng này và đã nghiên cứu cách đề phòng, chống đỡ. Hắn đã dành riêng một điều
quân luật (điều thứ tư) để căn dặn quân lính: “Người Nam đánh trận hay dùng sức
voi. Voi không phải là vật nội địa từng tập quen, nên hễ gặp phải, trước tiên
quân ta thế nào cũng tránh chạy. Không biết rằng, sức voi tuy khỏe, chung quy
cũng là thân máu thịt, không thể đương được với súng ống của ta. Nếu thấy voi
ra trận, xa thì bắn súng, gần thì dùng cung và lao làm cho nó bị đạn mà chạy
trở lại, giày xéo lẫn nhau quân ta nhân cơ hội ấy mà tiến lên chém giết, thế
nào cũng thắng trận, không còn nghi ngờ gì nữa” (Hoàng Lê nhất thống chí, sách
đã dẫn, tr.333-334). Phía ngoài đồn Ngọc Hồi, quân địch bố trí một bãi chướng ngại
dày đặc trong đó có chông sắt và địa lôi, nhằm ngăn cản tượng binh của ta từ
xa, không cho tiến sát vào chiến lũy.
Nhưng trước cả một đội tượng binh lớn mạnh với hơn 100 voi chiến
đang hùng hổ xông đến, trông từ xa như “quả núi di động”, quân Thanh vẫn không
khỏi hoảng sợ. Đề đốc Hứa Thế Hanh phải vội vàng trấn an tinh thần quân lính.
Hắn nói: “Dạy voi đánh trận là lối cũ của người Nam man. Mưu mẹo chống chế, súy
phủ đã có công văn nói rõ ràng” (Minh đô sử, sách đã dẫn, q. 44). Hắn lập tức
ra lệnh cho đội kỵ binh thiện chiến - binh chủng tinh nhuệ nhất của quân Thanh
- lao ra khỏi cửa lũy nghênh chiến. Nhưng vừa trông thấy đoàn voi chiến của
quân Tây Sơn ngựa quân Thanh đã “sợ hãi, hí lên, tế chạy, lồng lộn quay về, chà
đạp lẫn nhau” (Việt sử thông giám cương mục, q.47, tr.41, bản dịch đã dẫn, t.
20, tr.62). Chưa đánh, đội kỵ binh thiện chiến của địch đã rối loạn cả đội
hình.
Quân Tây Sơn thừa thắng thúc voi đuổi theo. Quân địch càng hoảng
sợ, tất cả rút lui, vào trong lũy cố thủ. Chúng dựa vào hệ thống chiến lũy, từ
trên cao bắn đại bác và cung nỏ ra rất dữ dội để cản đường tiến của đoàn quân
voi Tây Sơn.
Nhưng, trước hỏa lực của địch “súng và tên bắn ra như mưa” (Việt
sử thông giám cương mục, q.47, tr.41, bản dịch đã dẫn, t. 20, tr.62), thế trận
và đội ngũ quân Tây Sơn vẫn vững vàng.
Theo lệnh của Quang Trung, đội voi chiến lập tức chia ra làm hai
cánh đánh vòng về hai phía tả và hữu để mở đường cho đội xung kích lao lên (An
Nam quân doanh kỷ yếu, sách đã dẫn; Hoàng Lê nhất thống chí, sách đã dẫn,
tr.363). Đây là một đội quân cảm tử gồm 600 người, chia làm 20 toán. Mỗi toán
gồm 10 chiến sĩ giắt dao ngắn bên hông, khiêng một tấm mộc lớn bằng gỗ phía
ngoài quấn rơm ướt và 20 chiến sĩ cầm vũ khí tiến theo sau. Hai mươi toán quân
cảm tử dàn ngang thành thế trận chữ “nhất” (-), phía trước là 20 tấm mộc kết
liền với nhau như một bức tường thành di động, xông thẳng vào trận địa của
dịch. Những tấm mộc bọc rơm ướt có tác dụng chống đỡ đại bác và cung tên của
địch từ trong chiến lũy bắn ra, che chở cho đội quân xung kích tiến lên.
Khi đội xung kích tiến gần đến chiến lũy, quân Thanh lợi dụng
gió mùa Đông Bắc, dùng hỏa đồng (một thứ ống phun khói lửa), phun hỏa mù ra
nhằm làm rối loạn trận địa quân Tây Sơn. Trong chốc lát “khói tỏa mù trời, cách
gang tấc không trông thấy gì” (Hoàng Lê nhất thống chí, sách đã dẫn, tr.363).
Những bãi chướng ngại, đại bác, cung tên và cả hỏa mù nữa, không thể cản được
bước tiến của những chiến sĩ cảm tử trong đội quân xung kích. Chính kẻ thù cũng
phải thừa nhận “quân tiên phong của giặc (tức quân Tây Sơn - TG) xông thẳng vào
đại doanh của ta” (An Nam quân doanh kỷ yếu, sách đã dẫn), “giặc dùng những bó
rơm to lớn để che đỡ mà lăn xả vào... kẻ trước ngã, người sau nối, hết thảy đều
trổ sức liều chết mà chiến đấu” (Việt sử thông giám cương mục, q. 47, tr.41,
bản dịch đã dẫn, t.20, tr.62).
Áp sát chân lũy, đội quân xung kích liền bỏ các tấm mộc xuống,
dùng đoản đao và các thứ vũ khí mang theo, xông lên phá cửa lũy, chặt rào rồi
nhanh chóng đột nhập vào bên trong khu doanh trại của địch. Quân địch chống trả
quyết liệt và tổ chức phản kích hòng đẩy quân Tây Sơn ra ngoài, chiếm lại cửa
lũy. Nhưng đội quân xung kích Tây Sơn kiên quyết giữ vững cửa đột phá để mở
đường cho đại quân tiến lên.
Quân chủ lực Tây Sơn dưới sự đốc chiến trực tiếp của Quang Trung,
lập tức xung phong vào đồn lũy của địch. Bộ binh, kỵ binh, tượng binh của ta ào
ạt xông vào cửa lũy đã mở. Thế xung trận của quân Tây Sơn mạnh như triều dâng
bão cuốn mà chính quân địch cũng phải thừa nhận: “Quân giặc (tức quân Tây Sơn -
TG) họp lại đông như kiến cỏ, thế lên ào ạt giống như nước thủy triều dâng lên”
(An Nam quân doanh kỷ yếu, sách đã dẫn).
Từ hai bên sườn đồi Ngọc Hồi, đội tượng binh cũng đồng thời đánh
ập vào. Quân ta “lùa voi, xông pha tên đạn, nhổ rào lũy tiến vào” (Lê quý kỷ
sự, sách đã dẫn). Từ trên mình voi, quân ta dùng đại bác và hỏa hổ đốt phá đồn
lũy, doanh trại địch và thiêu cháy quân địch.
Quân Thanh vốn đã khiếp sợ những con voi chiến hùng hổ của Tây
Sơn, nay lại càng khiếp sợ hỏa lực lợi hại của binh chủng này. Chúng thấy “quân
giặc (chỉ quân Tây Sơn - TG) đều dùng voi chở đại bác xông ra trận” (Thánh vũ
ký, sách đã dẫn, q. 6, tr.36-37; Thanh sử lược biên sách chép tay) và “trên
lưng mỗi con voi có ba, bốn tên quân giặc chít khăn đỏ, ngồi ném tung hỏa cầu
lưu hoàng ra khắp mọi nơi, đốt cháy cả người nữa” (An Nam quân doanh kỷ yếu,
sách đã dẫn). Đó là hỏa hổ, một thứ vũ khí nổi tiếng của quân Tây Sơn. Trong 8
điều quân luật, Tôn Sĩ Nghị cũng giành một điều (điều thứ 5) để căn dặn quân
lính cách chống đỡ thứ vũ khí này. Theo hắn “quân Nam không có sở trường gì
khác, toàn dùng thứ ống phun lửa làm lợi khí gọi là hỏa hổ. Khi hai quân giáp
nhau trước hết họ dùng thứ đó đốt cháy quần áo người ta, buộc người ta phải
lui”. Hắn đã cho chế tạo hàng trăm lá chắn bằng da trâu sống và ra lệnh: “Nếu
gặp hỏa hổ của người Nam phun lửa thì quân ta một tay cầm lá chắn đỡ lửa, một
tay cầm dao chém bừa, chắc rằng chúng sẽ phải bỏ chạy tan tác”. Quân địch đã
nghiên cứu và phòng bị khá chu đáo nhưng hoàn toàn không thể lường trước được
tinh thần chiến đấu ngoan cường và mưu trí của quân ta.
Trước sức tiến công vũ bão của quân Tây Sơn, các chiến lũy và
toàn bộ trận địa phòng thủ mặt nam đồi Ngọc Hồi bị phá hủy tan tành. Quân ta
tràn vào bên trong đồn lũy như những dòng thác đổ, không một sức nào có thể cản
nổi. Sở chỉ huy của đề đốc Hứa Thế Hanh bị tiêu diệt. Nhiều doanh trại của địch
bị đốt cháy. Đồn Ngọc Hồi chìm ngập trong khói lửa.
Quân địch không chống cự nối, bỏ chạy tán loạn. Trong lúc hoảng
hốt, chúng “giày xéo lên nhau mà chết” (Hoàng Lê nhất thống chí, sách đã dẫn)
hoặc trốn chạy ra ngoài chạm phải địa lôi, rơi xuống cạm bẫy do chúng bố trí,
“chết và bị thương rất nhiều” (Đại Nam chính biên liệt truyện, sơ tập, sách đã
dẫn. q.30, tr.34). Một bộ phận quân Thanh rút về phía sau, cố liều chết tổ chức
cầm cự. Nhiều trận ác chiến tiếp tục diễn ra ở khu doanh trại phía bắc dồn Ngọc
Hồi cho đến bờ nam sông Tô Lịch. Nhưng đó chỉ là những cố gắng tuyệt vọng của
quân địch, không thể cứu vãn được thất bại hoàn toàn của chúng. Chính trong
những trận ác chiến này, quân địch càng cụm lại càng bị tiêu diệt nặng nề.
Những trận đánh đó còn để lại những ấn tượng sâu sắc trong ký ức của nhân dân
dịa phương với những tên đất, những chuyện kể dân gian. Đây là khu “Mả Ngô” hay
“Mả Cả” (nay là khu lò gạch ở phía đông quốc lộ số 1) nơi vùi xác vô số quân
giặc. Kia là “khu đất máu giặc ngập bàn chân” (phía bắc làng Ngọc Hồi, phía tây
quốc lộ số 1) gần sát bờ nam sông Tô Lịch (Hồ sơ khảo sát của khoa Sử trường
Đại học Tổng hợp).
Đồn Ngọc Hồi, cứ điểm phòng ngự kiên cố nhất của quân Thanh, bị
phá vỡ. Một bộ phận quan trọng quân địch bị giết chết tại trận. Mô tả trận đánh
này, Hoàng Lê nhất thống chí chép: “Quân Thanh chống không nổi, bỏ chạy tán
loạn giày xéo lên nhau mà chết... quân Tây Sơn thừa thế chém giết lung tung, thây
nằm đầy đồng máu chảy thành suối, quân Thanh đại bại” (Hoàng Lê nhất thống chí,
sách đã dẫn, tr.364).
Trong bộ chỉ huy của địch, đề đốc Hứa Thế Hanh, phó tướng của
Tôn Sĩ Nghị và là tướng chỉ huy toàn bộ mặt trận phía nam Thăng Long và tổng
binh Thượng Duy Thăng là tướng chỉ huy quân tả dực của Tôn Sĩ Nghị, bị bỏ mạng
tại đây.
Tuy nhiên số quân Thanh thoát chết ở đồn Ngọc Hồi vẫn còn khá nhiều, khoảng vài
vạn tên. Bọn tàn quân này theo tổng binh Trương Triều Long (Minh đô sử, sách đã
dẫn, q. 44), tìm đường tháo chạy về Thăng Long. Bấy giờ đang mùa khô, nước sông
Tô Lịch không sâu lắm. Bọn chúng vượt qua sông và đại bộ phận theo đường thiên
lý chạy về cung Tây Long mong được sự cứu viện của Tôn Sĩ Nghị. Một bộ phận
chạy tán loạn ra các ngả, có thể theo bờ sông Tô Lịch hay đê sông Nhị nhưng
cũng đều theo hướng tìm về đại bản doanh của chủ tướng. Mới chạy được một quãng
chưa xa và chưa kịp hoàn hồn , bọn chúng lại bất ngờ thấy trước mặtt đột nhiên
xuất hiện một đạo quân Tây Sơn chắn mất đường về. Đây là một bộ phận nhỏ của
đạo quân chủ lực - theo lệnh Quang Trung - đã vu hồi về phía đông bắc đồn Ngọc
Hồi, bố trí sẵn tuyến chặn địch rút chạy về Thăng Long.
Cánh quân vu hồi này xuất phát từ địa điểm tập kết tại cánh đồng
Cung theo đường làng ra bờ đê sông Nhị ở Yên Duyên (thôn Sở Hạ, xã Ninh Sở,
Thường Tín, Hà Nội) rồi theo bờ đê tiến lên phía sau đồn Ngọc Hồi và bố trí sẵn
ở phía Đông Bắc, cách đồn khoảng 3 km (Về địa điểm Yên Duyên, có ý kiến xác
định là Yên Kiện, có người cho là Yên Duyên thuộc huyện Thanh Trì. Theo Hoàng
Lê nhất thống chí thì “Trước đây, vua Quang Trung đã sai một toán quân theo bờ
đê Yên Duyên kéo lên, mở cờ gióng trống để làm nghi binh ở phía lúa đông”, sách
đã dẫn, tr.364). Căn cứ vào tài liệu đó và những kết quả khảo sát thực
địa, chúng tôi xác định lại Yên Duyên ở đây là thôn Sở Hạ, hay Yên Duyên Sở Hạ
nay thuộc xã Ninh Sở huyện Thường Tín, Hà Nội. Trước đây, thôn Yên Duyên Sở Hạ
này cùng với xã Yên Duyên và thôn Yên Duyên Sở Thượng (thuộc xã Yên Sở, huyện
Thanh Trì, Hà Nội) đều thuộc tổng Thanh Trì, huyện Thanh Trì. Thời Pháp thuộc
yên Duyên Sở Hạ tách ra thành xã Sở Hạ thuộc tổng Xâm Thị. Xem: Phan Huy Lê
(Trận Ngọc Hồi - Đầm Mực trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mãn Thanh,
Thông báo khoa học, Sử học, t. III, tr.72,73); Vũ Tuấn Sán, Về hai cuộc hành
quân của Nguyễn Huệ ra Thăng Long, Nghiên cứu lịch sử 119, tr.19). Ở chỗ này,
đê sông Nhị uốn vòng về phía tây rất gần đường thiên lý. Bố trí ở đó có thể
đồng thời ngăn chặn cả hai con đường rút chạy của quân Thanh: đường thiên lý và
đường đê sông Nhị.
Chờ khi quân địch đến gần, lực lượng vu hồi chặn địch mới bất
thình lình mở cờ, gióng trống hò reo vang dậy nhằm hư trương thanh thế, uy hiếp
dữ dội tinh thần vốn đã hoang mang cực độ của quân địch. Bọn tàn quân này vô
cùng kinh hoảng, vội vàng tranh nhau chạy tạt về phía tây.
Bọn tàn quân Thanh phải theo đường tắt, chạy qua cánh đồng Lưu
Phái, Quỳnh Đô ở khoảng giữa đường thiên lý và sông Tô Lịch. Chúng qua cầu Vĩnh
(hay cầu Viềng ở thôn ích Vĩnh, xã Vĩnh Quỳnh, Thanh Trì, Hà Nội) để mong tránh
sự bao vây của quân Tây Sơn, tìm đường vòng về phía tây trốn về Thăng Long (Cầu
Vĩnh hay Vĩnh Kiều, trước đây có người phỏng đoán là tên một địa điểm hay con
đường qua các làng Vĩnh Trung, Vĩnh Thịnh (thuộc Thường Tín, Hà Nội), và Vĩnh
Ninh (thuộc Thanh Trì, Hà Nội). Chúng tôi đã xác định lại địa điểm này Vĩnh
Kiều tức cầu Vĩnh, tên nôm là cầu Viềng. Đó là một cầu qua sông Tô Lịch ở phía
bắc làng ích Vĩnh giáp thôn Quỳnh Đô thuộc xã Vĩnh Quỳnh, huyện Thanh Trì, Hà
Nội. Ích Vĩnh cùng với các làng Lạc Thị, Quỳnh Đô, Vĩnh Trung, Vĩnh Thịnh xưa
kia gọi chung là Kẻ Giã và Ích Vĩnh là Giã Viềng, Quỳnh Đô là Giã Quỳnh, Lạc
Thị là Giã Chợ, Vĩnh Tuy là Giã Vanh, Vĩnh Thịnh là Giã Bảo. Theo Đồng Thánh
địa dư chí lược (q. 5) Ích Vĩnh trước là một thôn thuộc xã Vĩnh Trung, tổng Cổ
Điển, huyện Thanh Trì. Hiện nay Ích Vĩnh cùng với Quỳnh Đô, Vĩnh Ninh họp thành
xã Vĩnh Quỳnh. Làng Ích Vĩnh có tên nôm là Kẻ Viềng hay Giã Viềng nên cầu qua
sông Tô Lịch thuộc địa phận làng này cũng gọi là cầu Viềng và trong các tài
liệu chữ Hán thường phiên âm là Vĩnh Kiều, tức cầu Vĩnh).
Nhưng vừa qua khỏi cầu Vĩnh thì một điều bất ngờ khủng khiếp mới
lại ập đến với bọn chúng. Một đạo quân Tây Sơn có nhiều voi chiến yểm hộ, bỗng
nhiên xuất hiện chặn kín mọi ngả đường tháo chạy của chúng. Đây là đạo quân do
đại đô đốc Bảo chỉ huy, theo kế hoạch của Quang Trung, dã được lệnh tiến lên
lợi dụng địa hình vùng Ích Vĩnh, Quỳnh Đô bố trí sẵn một trận địa chờ địch.
Bên kia cầu Vĩnh là làng Ích Vĩnh và phía bắc Ích Vĩnh là làng Quỳnh Đô (cả hai
làng này nay thuộc xã Vĩnh Quỳnh, Thanh Trì, Hà Nội). Cả hai làng đều nằm dọc
theo hữu ngạn sông Tô Lịch. Bờ sông Tô Lịch là con đường giao thông chạy qua
hai làng này, phía nam xuống Ngọc Hồi, phía bắc có thể lên tận Thăng Long hay
qua cầu Quỳnh Đô, ra Văn Điển rồi theo đường thiên lý lên Thăng Long (Cầu Quỳnh
Đô qua sông Tô Lịch, cũng là một cầu có từ lâu đời. Theo Đại Nam nhất thống chí
(tỉnh Hà Nội, bản dịch đã dẫn, t. III, tr.191) thì vào đời Nguyễn, cầu Quỳnh Đô
bắc bằng gạch).
Phía tây làng Quỳnh Đô là đầm Mực, một khu đầm rộng lớn và có tiếng ở vùng này.
Hiện nay, khu đầm đó đã bị bồi lấp dần và đang được cải tạo thành đồng ruộng
cấy lúa. Người ta đã đắp một con bờ ngăn đôi khu đầm; phần phía bắc vẫn mang
tên là đầm Mực, phần phía nam Thường gọi là đầm Quỳnh Đô. Đầm Mực đã được cải
tạo hoàn toàn thành ruộng hai vụ, đến nay vẫn còn rộng trên 6 mẫu Bắc Bộ (Theo
tài liệu địa chính của Ủy ban hành chính xã Vĩnh Quỳnh). Đầm Quỳnh Đô rộng trên
40 mẫu Bắc Bộ và còn tương đối sâu hơn (Theo tài liệu địa chính của Ủy ban hành
chính xã Vĩnh Quỳnh). Lòng đầm ở giữa rộng trên 9 mẫu, đến nay quanh năm vẫn
ngập nước. Chung quanh đầm là cánh đồng trũng chỉ cấy được một vụ. Các cụ già
địa phương cho biết, cách đây khoảng ba, bốn chục năm, cả khu đầm Mực (bao gồm
đầm Mực và đầm Quỳnh Đô hiện nay) còn rất lầy lội, cỏ lau cỏ lác mọc um tùm.
Trước đây gần 200 năm, khu đầm đó tất nhiên còn rộng lớn hơn, sâu hơn và lầy
lội hơn.
Đạo quân của đại đô đốc Bảo đã chăng sẵn một mẻ lưới bổ vây và
tiêu diệt toàn bộ tàn quân địch ở đây. Từ Đại Áng, đạo quân này đi theo con
đường qua các làng Vĩnh Trung, Vĩnh Thịnh thuộc xã Thanh Hưng (Thường Tín, Hà Nội),
Lạc Thị (xã Ngọc Hồi, Thường Tín, Hà Nội), tiến lên khu đầm Mực. Một bộ phận
của đạo quân này bố trí ở phía bắc làng Quỳnh Đô để chặn đường rút chạy của
quân Thanh về Thăng Long, một bộ phận nữa từ phía nam làng Ích Vĩnh sẵn sàng
tiến lên, dồn ép quân địch vào khu đầm Mực.
Quân Thanh vừa qua khỏi cầu Vĩnh thì cả hai ngả đường dọc theo
bờ phải sông Tô Lịch, ngả phía bắc và phía nam đều bị chặn đánh. Sau lưng
chúng, quân chủ lực của Quang Trung và cánh quân vu hồi chặn địch cùng phối hợp
đuổi theo ráo riết. Cả ba mặt, phía bắc, phía nam và phía đông, quân địch đều
bị bao vây, uy hiếp mãnh liệt. Chúng không còn con đường tháo chạy nào khác
ngoài hướng duy nhất là đâm đầu vào khu đầm Mực ở phía tây.
Quân địch bị dồn vào bước đường cùng. Chúng còn khoảng vài vạn
quân nhưng chỉ là một khối người rã rời, kiệt sức về thể xác và kinh hoảng đến
tuyệt vọng về tinh thần. Từ ba mặt, quân ta khép chặt vòng vây, dồn ép chúng
vào cánh đầm Mực lầy lội, um tùm mà tiêu diệt. Quân Thanh “hết hồn hết vía, vội
trốn xuống đầm Mực làng Quỳnh Đô” và “quân Tây Sơn lùa voi cho giày đạp, chết
đến hàng vạn người” (Hoàng Lê nhất thống chí, sách đã dẫn, tr.364). Tượng binh
Tây Sơn lại một lần nữa phát huy uy lực ghê gớm của nó. Như những chiến xa
trong chiến tranh hiện đại đoàn voi chiến của quân Tây Sơn vừa bao vây chặn
đường, vừa xông vào giày xéo hàng loạt quân địch. Bộ binh và kỵ binh Tây Sơn
cũng thả sức tung hoành, chém giết quân địch. Tàn quân địch kẻ thì bị giết
chết, kẻ thì bị voi giày, kẻ thì bị lún sâu vào đầm lầy và vùi xác dưới đáy
đầm. Hàng vạn quân Thanh đã bị tiêu diệt tại dầm Mực làng Quỳnh Đô (Cách đây
vài chục năm, trong khi đào ao, đào mương qua khu vực đầm Mực nhân dân địa
phương còn thấy nhiều xương cốt và những mảnh đồ sắt han gỉ. Có thể đó là xác
quân Thanh và vũ khí của chúng. Nhưng đấy là căn cứ theo lời kể của các cụ già
địa phương. Hiện nay chưa tìm thấy những di hài và di vật đó để xác minh). Toàn
bộ bọn tàn quân địch ở đồn Ngọc Hồi đều bị tiêu diệt trong đó có cả tổng binh
Trương Triều Long (Việt sử thông giám cương mục chép là Trương Sĩ Long). Một số
tên lẩn trốn vào cả các làng xóm chung quanh cũng bị nhân dân giết chết hoặc
bắt nộp cho quân Tây Sơn.
Chỉ trong sáng ngày mồng 5 tháng giêng tết Kỷ Dậu, quân Tây Sơn
đã phá tan đồn, lũy Ngọc Hồi tiêu diệt toàn bộ quân địch khoảng 3 vạn tên ở
Ngọc Hồi và đầm Mực. Quân Tây Sơn dã nhanh chóng tiêu diệt một cứ điểm then
chốt nhất của quân địch, đập nát hệ thống phòng thủ của chúng ở phía nam Thăng
Long, mở toang cửa ngõ tiến vào giải phóng kinh thành, uy hiếp đại bản doanh
của Tôn Sĩ Nghị ở cung Tây Long. Đạo quân chủ lực của Quang Trung và đạo quân
của đại đô đốc Bảo đã hoàn thành hết sức rực rỡ nhiệm vụ nặng nề của hướng tiến
công chủ yếu, trong đó trận Ngọc Hồi - Đầm Mực giữ vai trò quyết chiến có ý
nghĩa quyết định.
*
**
Cũng vào sáng ngày mồng 5 tháng giêng, lúc trời còn tối khi đạo
quân chủ lực tiến đánh đồn Ngọc Hồi thì trên hướng tiến công phối hợp, đạo quân
của đô dốc Đông cũng đồng thời mở cuộc tiến công hết sức bất ngờ vào đồn Đống
Đa (Theo Hoàng Lê nhất thống chí thì “lúc vua Quang Trung đang đánh với
quân Thanh ở Ngọc Hồi thì sáng hôm ấy (tức ngày mồng 5 tháng giêng), Long đã
đánh tên thái thú Điền Châu ở trại Khương Thượng (tr.364) và “canh tư đêm ấy”
Tôn Sĩ Nghị nghe súng nổ ở phía tây - bắc thành (tr.365). Như vậy trận tiến
công đồn Khương Thượng bắt đầu vào khoảng canh tư ngày mồng 5 tháng giêng Kỷ
Dậu, lúc trời còn tối. Điều đó cũng phù hợp với những tài liệu của nhà Thanh
như Thánh vũ ký, Chính sử lược biên, An Nam quân doanh kỷ yếu...).
Đồn Đống Đa tuy không kiên cố như đồn Ngọc Hồi, nhưng cũng giữ
một vị trí quan trọng trong hệ thống phòng thủ Thăng Long của Tôn Sĩ Nghị.
Hồi cuối Lê đầu Nguyễn, Đống Đa thuộc trại Khương Thượng. Đây là
một trại thuộc tổng Hạ huyện Quảng Đức (sau đổi là Vĩnh Thuận), nay thuộc khu
phố Đống Đa, thành phố Hà Nội. Trại Khương Thượng ở phía bắc sông Tô Lịch, nằm
trên con đường cái quan trọng từ Thanh Hóa ra Tam Điệp, qua Nho Quan (Ninh
Bình), Chương Đức (Chương Mỹ, Hà Nội), rồi qua cầu Nhân Mục (cống Mọc, xã Nhân
Chính, Từ Liêm, Hà Nội) vào cửa ô tây - nam thành Thăng Long, tức cửa ô Thịnh
Quang sau đổi là Thịnh Hào tức ô chợ Dừa, khu Đống Đa, Hà Nội) (Bản đồ tỉnh
thành Hà Nội vẽ năm Minh Mạng 12 (năm 18'31) còn ghi ô Thịnh Quang (bản đồ ký
hiệu A. 2.3.32. Thư viện Khoa học xã hội). Nhưng đến bản đồ tỉnh thành Hà Nội
vẽ năm Tự Đức 26 (năm 1873) thì ghi là ô Thịnh Hào (bản đồ ký hiệu 2.3.24, Thư
viện Khoa học xã hội). Theo tấm bia năm Chính Hòa 13 (năm 1692) tại đình thôn
Trung, xã Thịnh Hào, nay thuộc khối 65 khu Đống Đa thì vào đời Lê (thế kỷ XVII)
phường Thịnh Quang thuộc huyện Quảng Đức, phủ Phụng Thiên. Do đó cửa ô thành
Thăng Long ở đây cũng mang tên ô Thịnh Quang. Về sau, khoảng đời Tự Đức, Thịnh
Quang được sáp nhập thêm thôn Hào Nam và đổi tên là Thịnh Hào. Từ đó, ô Thịnh
Quang cũng đổi tên là ô Thịnh Hào, tức ô chợ Dừa). Trại Khương Thượng ở vào
khoảng giữa cầu Nhân Mục trên sông Tô Lịch và cửa ô Thịnh Quang của La Thành
bảo vệ thành Thăng Long. Quân Thanh lập đồn trại ở Đống Đa là để khống chế con
đường cái từ Tam Điệp ra phía tây nam Thăng Long, đề phòng cuộc tiến công của
quân Tây Sơn theo hướng này và bảo vệ trực tiếp cửa ô Thịnh Quang, một cửa ngõ
phía tây - nam thành Thăng Long.
Tại đồn Đống Đa, quân Thanh không xây dựng công sự đắp chiến
lũy, mà chỉ dựa vào địa hình và làng mạc bố trí doanh trại.
Phía bắc trại Khương Thượng xưa kia là một cánh đồng rộng và
cao. Đây là trường thi võ đời Lê, gọi là trường thi bác cử (Vì vậy có sách như
Lê quý kỷ sự chép: Sầm Nghi Đống đóng đồn tại Trường thi võ (tức Khương
Thượng). Theo quy chế ban hành năm Bảo Thái thứ 5 (năm 1724) thì phép thi võ
đời Lê có hai cấp: thi sở cử và thi bác cử. Tất cả mọi người am hiểu võ nghệ -
kể cả quân sĩ và nhân dân - đều được thi sở cử tổ chức ba năm một lần. Những
người trúng tuyển kỳ thi sở cử thì năm sau, được vào thi bác cừ tại trường thi
võ kinh thành. Người trúng tuyển kỳ thi bác cử gọi là tạo sĩ, được bổ dụng
ngang với tiến sĩ. Trước đây, tại Khương Thượng còn di tích của trường thi võ
này như nền điện thí là một khu đất hình vuông rộng khoảng 3 sào Bắc Bộ, cao
hơn các thửa ruộng chung quanh độ 1,50 m (nay là nền nhà giữa của Học viện Thủy
lợi). Vào các kỳ thi bắc cử, vua Lê hay chúa Trịnh thường được rước lên điện
thí để xem thi (Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí (Binh chế chí),
bản dịch, Nhà xuất bản Sử học, Hà Nội, 1961, t. IV, tr.40). Vì vậy nền điện thí
còn gọi là cung Đống Đa. Núi Cây Cờ hay núi Cờ, còn có tên là Loa Sơn (núi ốc),
vốn là một gò đất lớn ở phía trước nền điện thí (khoảng góc đông nam trường cán
bộ công đoàn ngày nay). Ngọn núi này là nơi cắm cờ trong các kỳ thi bác cử
(nhân dân gọi là núi Cây Cờ hay núi Cờ).
Quân Thanh chiếm cánh đồng cao ráo ở phía bắc trại Khương Thượng
để dựng đồn trại. Sở chỉ huy của Sầm Nghi Đống đặt trên núi Cây Cờ tức Loa Sơn.
Đó là một điểm cao lợi hại có thế bao quát cả khu đồn trại và kiểm soát con
đường vào Thăng Long. Doanh trại quân lính xây dựng chung quanh sở chỉ huy bao
gồm cả hai bên đường cái. Để canh phòng từ xa và bảo vệ đồn Đống Đa, Sầm Nghi
Đống còn lập một số đồn binh nhỏ ở chung quanh. Đồn Yên Quyết (xã Yên Hòa, Từ
Liêm, Hà Nội) bên bờ sông Tô Lịch, có vị trí như một đồn tiền tiêu án ngữ phía
trước đồn Đống Đa. Phía sau có đồn Nam Đồng (Đống Đa, Hà Nội) ở khoảng giữa đồn
Đống Đa và cửa ô thành Thăng Long.
Đóng giữ đồn Đống Đa là đạo quân Điền Châu, Triều Châu. Đặc điểm
của đạo quân này là số lượng khá đông - ước đoán khoảng vài vạn quân - nhưng
chất lượng không đều và khá ô hợp (Không có tải liệu nào chép rõ số quân của
Sầm Nghi Đống. Nhưng căn cứ vào số quân bị tiêu diệt sau trận Đống Đa có thể
Phỏng đoán khoảng vài vạn quân). Sầm Nghi Đống có một đội quân hộ vệ riêng rất
trung thành và tinh nhuệ gọi là thân binh chỉ độ mấy trăm người (Việt sử thông
giám cương mục, q. 47, tr.41; Lê quý kỷ sự, Minh đô sử, q 44). Số quân lính
Điền Châu và Triều Châu gọi là thổ binh - được điều động cho Sầm Nghi Đống cũng
chỉ có 2.000 người (Đại Thanh lịch triều thực lục, sách đã dẫn, q. 1321, tr.31).
Đó là những lực lượng nòng cốt của quân địch ở đồn Đống Đa.
Ngoài ra là những quân lính mới tuyển mộ trên đường sang xâm lược nước ta,
trong số cư dân vùng biên giới và một số dân phu trong các công trường khai mỏ,
gọi chung là “nghĩa dũng”. Bọn này rất ô hợp và chưa quen chiến đấu, bản thân
Sầm Nghi Đống cũng là một viên tướng tầm thường. Trong cuộc tiến quân sang xâm
lược nước ta hồi cuối năm 1788, hắn chỉ trổ tài bằng cách chiêu nạp nhiều
“nghĩa dũng” và càn quét vùng Cao Bằng, Thái Nguyên. Hắn được vua Thanh thưởng
cho cái lông công cắm lên mũ gọi là “đeo hoa linh” (Đại Thanh lịch triều thực
lục, sách đã dẫn, q. 1321, tr.2).
Sự bố trí lực lượng phòng thủ quanh Thăng Long càng chứng tỏ Tôn
Sĩ Nghị tuy có phòng bị mặt tây - nam nhưng với tư tưởng chủ quan, coi thường,
cho rằng quân Tây Sơn ít có khả năng tiến công theo hướng này. Thời cuối Lê,
con đường thiên lý đã trở thành con đường giao thông chủ yếu và tiện lời nhất
từ trong Nam ra Thăng long. Còn con đường “lai kinh” hay “thượng đạo” qua Khương
Thượng vào Thăng Long thì trước đây là “đường cái rộng chừng 2 trượng (khoảng 8
m) là đường vào Thanh Hóa của triều trước (tức triều Lê - TG), người ta nói đi
đường này vắn tắt và rất gần”. Nhưng vào cuối thế kỷ XVIII, con đường đó “bế
tắc không đi được nữa” (Lê Quý Đôn, Kiến văn tiểu lục, bản dịch, Nhà xuất bản
Sử học, Hà Nội, 1962, tr.341; Sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí
(tỉnh Sơn Tây), bản dịch đã dẫn, t. IV, tr.219). Với sự phán đoán chủ quan của
kẻ xâm lược, Tôn Sĩ Nghị nghĩ rằng quân Tây Sơn dù có tiến công ra Thăng Long
cũng không thể đi theo con đường núi khó khăn, trắc trở và đã bế tắc dó. Ý định
ấy càng được củng cố khi hắn được tin quân Tây Sơn đang tập trung lực lượng
đánh ra mặt nam Thăng Long. Hắn chỉ lo tăng cường lực lượng cho tuyến phòng thủ
phía nam và sẵn sàng điều động cả đạo quân chủ lực ở dại bản doanh chi viện cho
tuyến xung yếu đó.
Đạo quân Tây Sơn làm nhiệm vụ tập kích tiêu diệt đồn Đống Đa do
đô đốc Đặng Tiến Đông chỉ huy. Không phải ngẫu nhiên Quang Trung giao trọng trách
đó cho đô đốc Đông.
Đặng Tiến Đông xuất thân trong một gia dình quý tộc, ông cha,
chú bác mấy đời đều dỗ đạt, làm quan to trong chính quyền Lê - Trịnh. Bản thân
ông cũng đã từng là võ tướng trong quân đội chúa Trịnh. Nhưng rồi sự đổ nát
không gì cứu vãn nổi của chế độ vua Lê chúa Trịnh, phong trào quật khởi của
nông dân và dặc biệt là cuộc tiến công ra Bắc Hà của quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ
chỉ huy năm 1786 đã tác động đến nhận thức tư tưởng của Đặng Tiến Đông. Ông sớm
tìm thấy ở phong trào Tây Sơn và sự nghiệp của người anh hùng Nguyễn Huệ, một
hướng mới của cuộc đời. Năm 1787, ông đã lặn lội vào tận Quảng Nam, tìm đến
quân doanh xin yết kiến Nguyễn Huệ. Ông được Nguyễn Huệ “đón tiếp và đãi ngộ
riêng, rồi được tin yêu ban cho ấn kiếm, giao cho thống lĩnh việc quân” (Bài
văn bia ở chùa Thủy Lâm do Phan Huy Ích soạn và Ngô Thì Nhậm nhuận sắc). Nguyễn
Huệ lập tức phong ông chức Đô đốc đồng tri, tước Đông Lĩnh hầu và giao cho chức
trấn thủ xứ Thanh Hoa (tức Thanh Hóa). Trong tờ chiếu phong chức tước ngày 3 tháng
7 năm Thái Đức thứ 10 (ngày 15-8-1787), Nguyễn Huệ khen ông là người “có khí
khái của trượng phu, tấm lòng của nam tử, đường làm quan gặp gỡ, dựng lên công
lớn vua tôi trước sau báo đền, không quên điều hiểu biết của kẻ sĩ trong nước,
trải qua mùa đông mà không chịu khuất như cây tùng lúc giá rét” (Nguyên bản tờ
chiếu phong chức tước cho Đặng Tiến Đông hiện nay do chi trưởng dòng họ Đặng ở
Lương Xá, xã Lam Điền (Chương Mỹ, Hà Nội) giữ). Trong số sĩ phu tiến bộ ở Bắc
Hà theo Tây Sơn, phải kể Đặng Tiến Đông là người đầu tiên, thể hiện một thái độ
thức thời, kiên quyết, mạnh dạn. Vì vậy Quang Trung Nguyễn Huệ rất tin cậy,
trọng dụng ông, và trong cuộc kháng chiến chống Thanh, giao cho ông chỉ huy một
đạo quân đảm nhiệm một hướng tiến công quan trọng.
Hơn nữa, đạo quân của đô đốc Đông phải hành quân bí mật, đi theo
một con đường núi đã bế tắc, phải mở lấy đường mà đi và khắc phục nhiều trở
ngại của núi rừng. Nhiệm vụ đó đòi hỏi tướng chỉ huy không những phải giàu nghị
lực, có tài tổ chức, mà còn phải am hiểu cặn kẽ địa hình và đường đi lối lại
trong vùng. Đặng Tiến Đông quê ở Lương Xá (Chương Mỹ, Hà Nội), nằm trên vùng
con đường “thượng đạo” đi qua nên đáp ứng hơn ai hết yêu cầu trên. Đạo quân của
đô đốc Đông không nhiều lắm chỉ khoảng một vạn quân - nhưng theo kế hoạch phối
hợp của Quang Trung, phải bất ngờ đánh úp, tiêu diệt đồn Đống Đa thật nhanh,
gọn. Để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ đó, quân đội Tây Sơn cần được sự tham
gia, hỗ trợ trực tiếp của nhân dân xung quanh đồn địch. Đặng Tiến Đông sinh ra
và lớn lên ở gần Thăng Long, lại thuộc dòng dõi một họ lớn có nhiều bà con thân
thuộc và bạn bè quanh vùng. Ông có nhiều điều kiện thuận lợi nhất để cử người
ra bí mật vận dộng nhân dân các làng xã xung quanh đồn Đống Đa sẵn sàng phối
hợp với quân Tây Sơn bao vây, tiêu diệt đồn giặc. Hưởng ứng sự vận động đó,
nhân dân chín làng xã vùng này đã lấy rơm bện thành hình những “con rồng” lớn
rồi tẩm dầu và các loại nhựa dễ cháy, cất giấu sẵn trong nhà để đến ngày diệt
đồn sẽ đốt cháy, tạo thành lưới lửa bao vây và thiêu hủy đồn giặc phối hợp với
quân Tây Sơn. Giao cho Đặng Tiến Đông chỉ huy đạo quân vu hồi đánh thọc sâu vào
đồn Đống Đa, Quang Trung không những tín nhiệm ông mà còn xét đoán và sử dụng
rất đúng tài năng của ông.
Đạo quân của đô đốc Đông đã vượt qua mọi khó khăn, trở ngại của
núi rừng, bảo đảm cuộc hành quân hết sức bí mật và đúng kế hoạch đã vạch ra.
Tối mồng 4 tháng giêng, đạo quân này tiến về phía Nhân Mục (xã Nhân Chính, quận
Thanh Xuân, Hà Nội ). Sáng mồng 5, trước giờ tiến công, lúc trời còn tối mù mịt,
quân Tây Sơn nhanh chóng vượt qua sông Tô Lịch, bí mật áp sát đồn Đống Đa, hình
thành sẵn thế trận bao vây tiến công.
Đạo quân của đô đốc Đông gồm kỵ binh và Tượng binh, tuy không
nhiều nhưng có sức cơ động nhanh và đột phá mạnh. Quân đội cũng được trang bị
nhiều hỏa hổ và đại bác đặt trên mình voi chiến. Cuộc tiến công bắt đầu vào
khoảng cuối canh tư (khoảng 3 giờ sáng). Bằng khí thế áp đảo quân thù, quân Tây
Sơn với đội hình đã bày sẵn, xông thẳng vào đồn trại của địch. Quân ta đốt phá
các doanh trại phía ngoài rồi nhanh chóng đánh thọc vào sở chỉ huy của địch.
Sầm Nghi Đống cố đốc thúc quân lính chống cự nhưng không sao đương nổi sức tiến
công mãnh liệt của quân Tây Sơn. Chỉ trong chốc lát, số quân Thanh bị chết và
bị thương đã lên đến 5.000 người (Minh đô sử, sách đã dẫn, q . 44). Sầm Nghi
Đống phải bỏ các doanh trại bên ngoài, rút về bảo vệ sở chỉ huy trên Loa Sơn để
chờ quân cứu viện.
Cùng lúc đó, xung quanh đồn trại của địch đột nhiên xuất hiện
một hàng rào lửa dày đặc. Đó là “trận rồng lửa” (hỏa long trận) của nhân dân
các địa phương góp sức cùng với đội quân Tây Sơn diệt giặc. Ngô Ngọc Du là một
nhà thơ đương thời đã ghi chép về hành động yêu nước và mưu trí đó của nhân dân
như sau: “Quân Tây Sơn tiến công thành Thăng Long, nhân dân chín xã ở ngoại thành
sôi nổi dùng rơm rạ bện thành hình rồng, tẩm dầu đốt lửa, thành trận rồng lửa”
(Tài liệu của Doãn Kế Thiện do Vũ Tuấn Sán công bố trong bài Về hai cuộc hành
quân của Nguyễn Huệ ra Thăng Long, Nghiên cứu lịch sử số 119, tháng 2-1969,
tr.22).
Quân địch đang choáng váng vì đòn tiến công bất ngờ của quân Tây
Sơn, lại khiếp đảm trước lưới lửa bao vây trùng điệp của nhân dân. Trong đêm
tối, chúng chỉ còn trông thấy bốn bề lửa cháy rực trời tiếng reo hò dậy đất.
Đồn trại của địch tan vỡ nhanh phóng, quân dịch “đang lúc đêm tối, tự xéo lên
nhau mà chạy” (Ngụy Nguyên, Thánh vũ ký, sách đã dẫn, q. 6, tr.37). Các mũi
tiến công của quân Tây Sơn lao vào chém giết như vào chỗ không người.
Từ trên sở chỉ huy, Sầm Nghi Đống thấy rõ đã lâm vào cảnh thế
cùng lực kiệt: chống đỡ không nổi, quân cứu viện không có, phá vây không được.
Hắn tuyệt vọng, thắt cổ chết ngay tại sở chỉ huy. Đội thân binh trung thành của
hắn cũng tự sát theo chủ tướng đến vài trăm tên (Sử quán triều Nguyễn, Việt sử
thông giám cương mục, q. 47, tr.41, bản dịch đã dẫn, t. 20. tr.62).
Đồn Đống Đa bị tiêu diệt vào lúc trời chưa sáng (Theo Lê quý kỷ
sự thì Sầm Nghi Đống bị “vây đánh” và đã “cố sức chiến đấu suốt ngày”. Chúng
tôi chưa rõ căn cứ của tác giả nhưng điều ghi chép này mâu thuẫn với những tài
liệu đáng tin cậy của ta và cũng không phù hợp với diễn biến của cuộc kháng
chiến).
Đạo quân của đô đốc Đông được nhân dân hết lòng ủng hộ và trực
tiếp tham gia chiến đấu, đã đánh một trận tiêu diệt rất nhanh, gọn. Chỉ sau mấy
giờ chiến đấu, đồn trại địch bị phá tan, đại bộ phận quân địch bị tiêu diệt tại
trận. Một số chạy thoát ra ngoài cũng bị quân ta “đuổi theo chém và bắt được
đến quá nửa” (Lê quý kỷ sự, sách đã dẫn). Quân Tây Sơn thừa thắng tiêu diệt
luôn các đồn Yên Quyết, Nam Đồng rồi nhanh chóng tràn vào cửa ô tây - nam thành
Thăng Long.
Sau trận đánh, hàng vạn xác giặc nằm ngổn ngang khắp chiến
trường từ trại Khương Thượng, Thịnh Quang đến trại Nam Đồng. Khi thu dọn chiến
trường, quân dân ta đã nhặt xác giặc, xếp thành từng đống rồi đấp đất lên thành
những gò đống lớn. Đó là lối chôn cất cổ truyền của nhiều nước phương Đông vừa
có ý nghĩa biểu dương chiến công, để lại một di tích chiến thắng cho muôn đời
con cháu, vừa nhằm cảnh cáo kẻ thù. Những đống xác giặc đó gọi là Kình nghê
kinh quán, có nghĩa là gò đống lớn vùi xác quân giặc hung dữ ví như loài cá
kình, cá nghê ngoài biển cả (là loại cá to hay đuổi bắt loại cá nhỏ mà ăn).
Mười hai gò đống như vậy đã xuất hiện trên trận địa ngày hôm qua như những
chiến tích bất diệt của dân tộc. Trong bài Loa Sơn điếu cổ, nhà thơ Ngô Ngọc Du
đã ca ngợi võ công oanh liệt của quân dân ta gắn liền với những chiến tích đó:
Thành Nam thập thị Kình nghê quán,
Chiếu diệu anh hùng đại võ công.
Nghĩa là:
Phía nam thành, mười hai gò xác giặc,
Rạng rỡ võ công lớn của anh hùng.
Tuy vậy, mười hai gò lớn vẫn chưa vùi hết xác quân xâm lược đây
đó trên cánh đống vẫn còn nhiều xác giặc chôn rải rác. Chứng cớ là năm 1851,
khi đào đất để đắp đường, mở chợ ở khu vực này, người ta còn tìm thấy nhiều
xương cốt và thu nhặt đem chôn vào một hố, đắp thành gò thứ 13.
Trải qua năm tháng, trên các gò đống đó, cây cối mọc um tùng,
nhiều nhất là cây đa. Với tên đất sẵn có, nhân dân thường gọi những gò động đó
là “gò Đống Đa” và vùng có những gò đống đó là “xứ Đống Đa” (Cho đến giữa thế
kỷ XIX, các gò Đống Đa vẫn còn y nguyên. Nhưng đến bản đồ Hà Nội năm Tự Đức thứ
26 (năm 1873) thì chỉ còn thấy 6 gò trong khu vực ghi là “Đống Đa xứ”. Trong
khoảng đời Nguyễn và Pháp thuộc, những chiến tích lịch sử đó không được bảo vệ
nên đã bị phá hoại dần. Nhiều gò bị san bằng. Hiện nay chỉ còn lại hai gò được
gọi là gò Đống Đa tức gò thứ 13 lập thêm năm 185l (trên gò này có đền Trung
Liệt nên còn gọi là gò Trung Liệt) và gò đống Thiêng (trong khu Thái Hà ấp,
trên gò này trước đây có chùa của làng Thịnh Quang, gọi là chùa Thiêng). Phía
sau chùa Bộc, giáp chùa Đồng Quang còn gò Đầu Lâu nhưng gò đã bị phá từ lâu,
nhân dân chỉ còn ghi nhớ vị trí và tên gò).
Tại đại bản doanh đóng ở cung Tây Long bên bờ sông Nhị, Tôn Sĩ
Nghị và bộ chỉ huy quân Thanh đang lo lắng theo dõi chặt chẽ diễn biến của mặt
trận phía Nam.
Sáng mồng 4, hắn có bị sửng sốt về cuộc tiến công bất ngờ của
quân Tây Sơn nhưng vẫn chủ quan về sức mạnh của quân Thanh và sự phán đoán đúng
đắn của hắn. Hắn tập trung sự chú ý vào mặt trận phía Nam và sẵn sàng tung đạo
quân chủ lực chi viện cho đồn Ngọc Hồi khi cần thiết. Cứ khoảng chốc lát, lại
có một kỵ binh tin cậy mang tin tức của mặt trận phía Nam về đại bản doanh cho
Tôn Sĩ Nghị. Nhưng như tác giả Hoàng Lê nhất thống chí đã nhận xét: “ý của Nghị
chỉ lo có một mặt đó, không ngờ lại có mặt khác ập tới” (Hoàng Lê nhất thống
chí, sách đã dẫn, tr.365).
Sáng mồng 5, lúc canh tư, Tôn Sĩ Nghị đột nhiên nghe tiếng súng
nổ liên hồi ở phía tây - nam thành Thăng Long. Hắn vô cùng kinh ngạc, vội sai
thám tử cấp tốc phi ngựa ra xem tình hình. Sau đó ít lâu, khoảng đầu canh năm,
lính kỵ mã ở đồn Ngọc Hồi lại phi báo cho hắn biết: đồn Ngọc Hồi đang bị đánh
dữ dội. Hắn đang băn khoăn chưa kịp điều quân đi tiếp ứng cho mặt trận phía Nam
thì thám tử vừa sai đi đã trở về báo tin: đạo quân Điền Châu, Triều Châu đã tan
vỡ, đồn Đống Đa có nguy cơ bị tiêu diệt. Ngay sau đó, hắn lại được tin quân Tây
Sơn đã ập vào cửa ô thành Thăng Long “đốt giết lung tung, khói lửa bốc lên đầy
trời” (Hoàng Lê nhất thống chí, sách đã dẫn, tr.365).
Theo kế hoạch của Quang Trung, trong khi đạo quân chủ lực công
phá đồn Ngọc Hồi, thì đạo quân của đô đốc Đông bất ngờ tập kích tiêu diệt đồn
Đống Đa, rồi nhanh chóng thọc sâu vào thành Thăng Long, uy hiếp đại bản doanh
của Tôn Sĩ Nghị. Do đó, mờ sáng ngày mồng 5, lúc đồn Đống Đa sắp bị tiêu diệt,
đô đốc Đặng Tiến Đông đã hết sức khẩn trương mau lẹ, đem đội kỵ binh tiên phong
của mình đánh thọc vào Thăng Long. Như một mũi dao nhọn, đội kỵ binh Tây Sơn
lao thẳng về phía cung Tây Long. Đấy là hành động bất ngờ, táo bạo mà Tôn Sĩ
Nghị không thể nào lường trước được. Trong một bài văn bia đương thời, Phan Huy
Ích và Ngô Thì Nhậm đã ca ngợi hành động của Đặng Tiến Đông: “Ông một mình một
ngựa tiến lên trước, dẹp yên nơi cung cấm” (Tông đức thế tự bi tại chùa Thủy Lâm
(Lam Điền, Chương Mỹ, Hà Nội). Bài văn bia do Phan Huy Ích soạn, Ngô Thì Nhậm
nhuận sắc, khắc ngày 15 tháng 6 năm Cảnh Thịnh thứ 5 (ngày 9-7-1797)).
Những tin tức khủng khiếp của mặt trận phía Nam và phía tây -
nam đồng thời đến với Tôn Sĩ Nghị như những đòn trời giáng. Cả một đạo quân chủ
lực còn nguyên vẹn trong tay, nhưng viên chủ soái của quân Thanh hoảng hốt,
không còn biết xoay xở, đối phó thế nào. Như trong bản tâu gửi về triều đình
nhà Thanh, Tôn Sĩ Nghị cảm thấy “quân giặc nhiều quá” và quân Thanh đã bị “vây
kín bốn mặt” (Đại Thanh lịch triều thực lục, q. 1326, tr.16). Hắn “sợ mất mật”
và “ngựa không kịp đóng yên, ngưòi không kịp mặc giáp, dẫn bọn lính kỵ mã của
mình chuồn trước qua cầu phao, rồi nhằm hướng Bắc mà chạy” (Hoàng Lê nhất thống
chí, sách đã dẫn, tr.365). Viên thiên tổng Tiết Trung phải dắt cương ngựa cho
Tôn Sĩ Nghị chạy trốn và phó tướng Khánh Thành đi theo hộ tống (Đại Thanh lịch
triều thực lục, q. 1326, tr.16).
Chủ tướng bỏ chạy, “quân sĩ các doanh nghe tin đều hoảng hồn,
tan tác bỏ chạy, tranh nhau qua cầu sang sông, xô đẩy nhau rơi xuống mà chết
rất nhiều” (Hoàng Lê nhất thống chí, sách đã dẫn, tr.365).
Tình hình hỗn loạn đến mức độ, tổng binh Lý Hóa Long chạy đến
giữa cầu phao cũng bị quân lính đẩy ngã nhào xuống sông. Thật là một cuộc
tháo chạy thảm hại, nhục nhã.
Qua khỏi cầu phao sang bờ bắc sông Nhị, Tôn Sĩ Nghị lại sợ quân
Tây Sơn lợi dụng cầu phao đuổi theo. Chỉ lo bảo toàn tính mạng của bản thân,
viên bại tướng đó không ngần ngại ra lệnh “cắt đứt cầu phao để chẹn phía sau” (Thánh
vũ ký, sách đã dẫn, q. 6, tr.37; Thanh sử lược biên, sách đã dẫn). Đúng như một
áng sử ca của ta đã nói:
Qua sông lại sợ truy binh,
Phù kiêu chém đứt, quân mình thác oan.
(Lê Ngô Cát, Phạm Đình Toái, Đại Nam quốc sử diễn ca, Nhà xuất
bản Văn học, Hà Nội, 1966, tr.208).
Hành động ích kỷ và tàn nhẫn của Tôn Sĩ Nghị đã làm cho hàng vạn
quân Thanh bị dòng nước sông Nhị cuốn trôi. “Cầu gẫy, người bị chết vô kể”
(Việt sử thông giám cương mục, bản dịch đã dẫn, t. 20, tr.62) và “nước sông Nhị
vì thế mà tắc nghẽn không chảy được” (Hoàng Lê nhất thống chí, sách đã dẫn,
tr.365). Số quân Thanh không kịp qua cầu phao cũng tìm mọi cách liều lĩnh vượt
sông. Có bọn cướp được một số thuyền buôn và thuyền đánh cá đang đỗ bên bờ sông
nhưng rồi chúng tranh nhau xuống thuyền đông quá nên hầu hết cũng bị đắm. Có
bọn thì buộc giáo, mác, khiên, mộc lại thành từng bó để làm bè vượt sông (Minh
đô sử, sách đã dẫn, q. 44). Vừa lúc đó, quân Tây Sơn ập tới. Số phận quân Thanh
chưa kịp qua sông đã được định đoạt; nếu không vùi xác theo dòng sông Nhị thì
cũng bị chém giết hoặc bắt làm tù binh. Một số tàn quân trốn tránh vào các xóm
làng thì sau đó trong vòng 10 ngày, đều phải ra đầu thú.
Số phận đám quân Thanh đóng ở bờ bắc sông Nhị cùng với số tàn
quân vượt qua cầu phao chạy trốn theo Tôn Sĩ Nghị cũng không may mắn hơn bao
nhiêu.
Bọn chúng bị quân Tây Sơn truy kích phía sau và đến Phượng Nhãn
lại bất ngờ bị đạo quân của đô đốc Lộc chặn đánh. Tôn Sĩ Nghị và bọn tàn quân
không dám chạy theo đường cái. Chúng phải luồn rừng, lội suối, leo núi “đường
đi quanh co, rẽ ngang rẽ dọc... luôn luôn lạc lối, không tìm được nẻo đi” (Trần
Nguyên Nhiếp, An Nam quân doanh kỷ yếu, sách đã dẫn) và “đêm ngày đi gấp, không
dám nghỉ ngơi” (Hoàng Lê nhất thống chí, sách đã dẫn, tr.366). Tôn Sĩ Nghị phải
vất bỏ tất cả mọi thứ mang theo kể cả sắc thư, kỳ bài, quân ấn chủ soái do vua
Thanh ban cho, để lo chạy thoát thân. Theo Minh đô sử thì điều đáng tiếc là đạo
quân của đô đốc Lộc trong khi vượt biển vì gặp gió Đông Bắc nên tập kết ở sông
Lục Đầu hơi chậm. Do đó, đạo quân này chưa kịp bịt kín hết các ngả đường như kế
hoạch của Quang Trung đã đề ra, “nếu đến sớm vài ngày thì quân Thanh đã bị bắt
hết, không còn sót một mống”.
Theo Trần Nguyên Nhiếp, bí thư riêng và là người cùng chạy trốn
theo Tôn Sĩ Nghị thì bọn bại tướng, bại quân này phải “đói cơm khát nước, không
kiếm đâu ra được ăn uống, cứ phải đi bảy ngày bảy đêm mới đến trấn Nam Quan”
(Trần Nguyên Nhiếp, An Nam quân doanh kỷ yếu, sách đã dẫn). Một giáo sĩ người
Pháp sống lâu năm ở nước ta thời bấy giờ là Đơ la Bít-xa-se (De la Bissachère)
cho biết số tàn quân Thanh chạy trốn “bị chết gần hết trong rừng” (Ch. May bon.
La relation sur le Tunkin et la Cochinchine de M.De la Bissachère, Paris, 1820.
Tr.132) và chỉ còn độ ba, bốn chục tên thoát chết trở về nước mang theo tin bại
trận thảm hại (De la Bisschere, État actuel du Tunkin, de la Cochinchine et des
autres royaumes de Cambodge, Laos et Lạc Thổ, Paris, 1812, t.2, tr.170, F.R. de
Sainte Croix, Voyoge commercial et politique aux Indes orientales, aux iles Philippines,
à la Chine, avec des notions sur la Cochinchine et le Tonquin pendant les
années, 1803, 1804, 1805, 1806 et 1807, Paris, 1810, t. 3, tr.320). Đó có lẽ là
nhóm tàn quân chạy theo Tôn Sĩ Nghị và về đến biên giới sớm nhất. Ngoài ra còn
có những bọn chạy tán loạn vào rừng và trong khoảng một tháng sau mới lục tục
tìm đường về nước. Theo lời tâu của Tôn Sĩ Nghị thì số lính sống sót chạy về
Quảng Tây trước sau cả thảy hơn 5.000 người. Một bọn hơn 500 người trốn tránh
trong rừng núi, bị lạc đường, cuối cùng chạy bạt về Vân Nam (Đại Thanh lịch
triều thực lục, sách đã dẫn, q. 1323, tr.33 và 37). Khí thế chiến thắng vang
lừng của quân Tây Sơn và cảnh trốn chạy tả tơi của bọn tàn quân địch làm cho
quân Thanh ở vùng biên giới cũng hốt hoảng. “Từ cửa ải Nam Quan trở về bắc,
trai gái, già trẻ bồng bế dắt díu nhau chạy trốn, suốt vài trăm dặm lặng ngắt
không một bóng người” (Hoàng Lê nhất thống chí, sách đã dẫn, tr.370; Đại nam
chính biên liệt truyện sơ tập, sách đã dẫn, q. 30, tr.35).
Đạo quân Thanh đóng ở Hải Dương cũng bị đánh tan. Riêng đạo quân
Vân Nam do đề đốc Ô Đại Kinh chỉ huy, ngày 21 tháng chạp năm Mậu Thân (ngày
16-1-1789) đến Tuyên Quang và những ngày cuối năm đó mới đến Sơn Tây, vừa đóng
quân được mấy ngày thì được tin Tôn Sĩ Nghị bại trận, cả đạo quân này hốt hoảng
tháo chạy về nước. Không bị tiến công nhưng đạo quân Ô Đại Kinh cũng bị tan vỡ
và rút chạy trong cảnh hỗn loạn. Qua vùng Tuyên Quang, chúng lại bị một đội dân
binh dân tộc Tày do Ma Doãn Dảo chỉ huy, chặn đánh (Tài liệu kháo sát điền
dã dân tộc học của Hoàng Hoa Toàn, tư liệu khoa Sử, Đại học tổng hợp). Chúng
càng hoảng sợ chen lấn, xô đẩy nhau giành đường về nước và một bộ phận khá đông
tán loạn vào núi rừng. Một toán quân do Phùng Chấn Tiên cầm đầu, bị lạc đường
chạy sang Quảng Tây. Theo lời tâu của tổng đốc Vân Quý là Phú Cương thì trong
đạo quân Ô Đại Kinh có một số không thấy trở về, trong đó có một viên vũ cử (cử
nhân võ), một viên ngoại ủy (võ quan cấp dưới) và mấy chục tên lính (Đại Thanh
lịch triều thực lục, sách đã dẫn, q. 1322, tr.18, 23 và 34).
Thắng lợi của cuộc kháng chiến thật là rực rỡ. Toàn bộ quân xâm
lược Mãn Thanh khoảng 29 vạn quân cùng với vài vạn quân của bù nhìn Lê Chiêu
Thống đã bị đánh tan tành, bị tiêu diệt đại bộ phận và bị quét sạch ra khỏi bờ
cõi. Trong bốn đạo quân Thanh thì ba đạo, trong đó có đạo quân chủ lực của Tôn
Sĩ Nghị, bị tiêu diệt gần hết và một đạo không bị đánh mà cũng tan tác. Hàng
loạt tướng soái cao cấp của dịch bị bỏ mạng: đề đốc phó tướng Hứa Thế Hanh, phó
tướng Hình Đôn Hạnh; các tổng binh Thượng Duy Thăng, Trương Triều Long, Lý Hóa
Long; tri phủ Sầm Nghi Đống; các tham tướng Dương Hưng Long, Tương Tuyên, Anh
Lâm. Đó là chưa kể một số võ quan khác cũng bị chết trận như: du kích Minh Trụ,
Trương Thuần, Vương Đàm, Trương Hội Nguyên, Lưu Việt; đô ty Đặng Vĩnh Lượng,
thủ bị Lê Trí Minh, tri huyện Vi Thiên Quỳ, kinh lịch Trương Thành (Đại
Thanh lịch triều thực lục, sách đã dẫn, q. 1322, tr.18, 23 và 34). Số quân
Thanh đầu hàng và bị bắt làm tù binh có đến vài vạn (Hoàng Lê nhất thống chí,
sách đã dẫn, tr.371. Trong các bài biểu gửi cho nhà Thanh, Quang Trung nói số
tù binh chỉ có trên 800 người. Bài Chiếu phát phối hàng binh nội địa của Quang
Trung do Ngô Thì Nhậm viết, cho biết Quang Trung chủ trương giữ lại một số tù
binh khá đông để “bổ sung vào quân ngũ”. Con số 800 chỉ là số tù binh Quang
Trung định trao trả cho nhà Thanh).
Vua Càn Long, Tôn Sĩ Nghị cho đến các sử thần nhà Thanh đều cố
che đậy thất bại thảm hại của quân Thanh và tìm cách biện bạch trách nhiệm của
vua quan nhà Thanh. Tôn Sĩ Nghị thì đổ tội cho Lê Chiêu Thống mới nghe tin:
“Nguyễn Huệ thân hành đem binh đến đánh” đã mất cả hồn vía” và bỏ chạy trước
làm cho “binh sĩ hoang mang rối loạn” (Đại Thanh lịch triều thực lục, sách đã
dẫn, q. 1321, tr.16). Điều đó thật oan uổng cho tên vua bù nhìn này. Sáng mồng
5, đang ở trong cung điện, được tin quân Thanh bại trận, Tôn Sĩ Nghị rút chạy,
Lê Chiêu Thống vội vàng bám gót chạy theo. Nhưng ra đến bờ sông thì cầu phao đã
bị cắt, hắn hoảng sợ theo bờ sông chạy lên Nghi Tàm, cướp được chiếc thuyền đánh
cá chèo qua sông. Hắn tìm đường chạy lên ải Nam Quan mới gặp Tôn Sĩ Nghị để bắt
đầu cuộc sống lưu vong nhục nhã nơi đất khách quê người. Vua Càn Long nhà Thanh
thì cho rằng quân Thanh bại trận là vì “Trời đã chán ghét họ Lê” và Tôn Sĩ Nghị
sau khi chiếm được thành Thăng Long, không chịu rút quân về nước như chỉ dụ của
nhà vua. Vị hoàng đế nhà Mãn Thanh còn lo xa, viết hai bài An Nam ký sự và An
Nam thuỷ mạt sử ký với mục đích: “sợ người đời sau không hiểu cái kế nặng nhẹ
lâu dài của ta cho nên bày tỏ mà chép ra đây” (Thanh Cao Tông, An Nam thuỷ mạt
sử ký). Thực ra, trước đó chính vua Thanh đã cho phép Tôn Sĩ Nghị tiến quân vào
tận sào huyệt Quảng Nam để bắt sống Nguyễn Huệ hoặc tiến quân đe dọa buộc
Nguyễn Huệ đầu hàng. Vì vậy, tuy quy trách nhiệm cho Tôn Sĩ Nghị, vua Thanh
không dám xử tội bại tướng họ Tôn. Vua Thanh có thu hồi tước công nhưng vẫn coi
Tôn Sĩ Nghị là người “xuất sắc trong hàng tổng đốc” và triệu về kinh cho giữ
chức Thượng thư rồi bổ làm tổng đốc Tứ Xuyên; thăng lên tổng đốc Lưỡng Giang.
Tuy biện bạch nhiều mặt để cứu vớt thể diện của “thiên triều”,
nhưng vua nhà Thanh cũng phải công nhận “thế giặc rất dữ dội” và về phía nhà
Thanh “chết mất nhiều võ quan cao cấp”, “quốc thể không đến nỗi bị tổn thương,
nhưng uy danh lẫm liệt cũng bị sút kém ít nhiều” (Đại Thanh lịch triều thực
lục, sách đã dẫn, q. 1321 và 1322).
Trên thực tế, cuộc chiến tranh xâm lược của nhà Thanh đã bị thất
bại hoàn toàn, ý chí xâm lược của kẻ thù đã bị đè bẹp. Vua tôi nhà Thanh lúc
này lúc khác còn có những hành động phô trương lực lượng, những lời lẽ đe dọa,
nhưng hoàn toàn không dám xâm phạm đến nước ta lần nữa. Phúc Khang An là một
đại thần người Mãn Châu được cử xuống làm tổng đốc Lưỡng Quảng thay Tôn Sĩ Nghị
là để lo thu xếp việc “giảng hòa” cho ổn thỏa với Quang Trung. Ý đồ đó của vua
Thanh được phản ánh kín đáo trong câu nói: “Nước An Nam xưa nay vẫn nhiều lam
chướng và dịch tễ, nước độc, khí hậu xấu, thì việc gì còn đem binh mã và tiền
lương của thiên triều bỏ phí ở nơi viêm nhiệt hoang vu. Vả lại nếu đem quan quân
sang đánh lấy được cả nước thì lại phải phái nhiều binh lính sang để phòng thủ.
Dân tình An Nam lại hay phản phúc, những triều đại trước đã từng là quận huyện
đất đai của ta không được bao lâu họ lại sinh biến, hiện có những gương tày
liếp. Bây giờ ta lấy đất của họ, biết đâu một vài chục năm nữa họ lại chẳng
sinh sự. Trẫm đã nghĩ kỹ, thực không nên làm và trẫm đã xuống chỉ bảo cho Phúc
Khang An biết... Tóm lại, bây giờ đã không nên đánh thì chi bằng hãy nên khoan
hồng một chút để bọn Nguyễn Huệ thành tâm quy thuận...” (Đại Thanh lịch triều
thực lục, sách đã dẫn, q. 1323, tr.29).
Bằng thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến, dân tộc ta dưới sự
lãnh đạo của Quang Trung Nguyễn Huệ, đã đập tan mộng tưởng cướp nước của nhà
Thanh, bán nước của bè lũ Lê Chiêu Thống, giải phóng hoàn toàn kinh thành và
đất nước khỏi ách chiếm đóng của nước ngoài giữ vững nền Độc lập Tự do của Tổ
quốc.
*
**
Về căn bản, cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Thanh đã kết
thúc từ sáng ngày mồng 5 Tết với chiến thắng có ý nghĩa quyết định của trận
Ngọc Hồi, Đống Đa (Khương Thượng).
Mờ sáng ngày hôm đó, sau khi tiêu diệt đồn Đống Đa một cách chớp
nhoáng, đạo quân của đô đốc Đông là lực lượng Tây Sơn đầu tiên tiến vào giải
phóng kinh thành Thăng Long. Đến trưa, sau khi quét sạch quân Thanh ở mặt trận
phía Nam, đạo quân chủ lực của Quang Trung cùng với đạo quân của đại đô đốc
Bảo, đội ngũ chỉnh tề, tư thế hiên ngang, tiến vào kinh thành. Từ cửa thành
phía nam, Quang Trung thấy lá cờ đỏ bách chiến bách thắng của quân đội Tây Sơn
đã tung bay trên bầu trời Thăng Long và đô đốc Đông đem quân ra đón tiếp. Quang
Trung trên mình voi chiến, với chiếc áo chiến bào đen sạm khói súng qua những
ngày đêm chiến đấu ác hệt, dẫn dầu đoàn quân chiến thắng. Nhân dân kinh thành
tràn ngập trong niềm vui khải hoàn, đổ ra chật phố phường hoan nghênh, đón chào
người anh hùng vĩ đại của dân tộc vừa lập nên những chiến công thần kỳ.
Được vinh dự sống những giờ phút lịch sử đó, nhà thơ Ngô Ngọc Du
đã ghi lại cảnh chiến thắng huy hoàng trong một bài thơ:
Giặc đâu tàn bạo sang điên cuồng,
Quân vua một giận, oai bốn phương.
Thần tốc ruổi dài xông thẳng tới,
Như trên trời xuống ai dám đương.
Một trận rồng lửa giặc tan tành,
Bỏ thành cướp đó trốn cho nhanh.
Ba quân đội ngũ chỉnh tề tiến,
Trăm họ chật đường vui tiếp nghênh.
Mây tạnh mù tan trời lại sáng,
Đầy thành già trẻ mặt như hoa,
Chung vai sát cánh cùng nhau nói
Cố đô vẫn thuộc núi sông ta
(Ngô Ngọc Du, Long thành quang phục ký thực, bản dịch của Vũ Tuấn Sán, Nghiên
cứu lịch sứ số 119, tháng 2 năm 1969, tr.22).
Như vậy là chỉ trong năm ngày đêm - năm ngày đêm đầu tiên của
mùa xuân Kỷ Dậu (1789) kể từ đêm giao thừa đến ngày mồng 5 - quân dân ta đã tốc
chiến tốc thắng, đánh tan tành hàng chục vạn quân xâm lược, giành thắng lợi rất
nhanh, gọn, triệt để. Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, dân
tộc ta đã tiến hành nhiều cuộc kháng chiến, đã từng đánh bại mọi kẻ thù xâm
lược, nhưng cho đến cuối thế kỷ XVIII, chưa có lần nào khi phải đương đầu với
hàng chục vạn quân xâm lược mà đánh thắng oanh liệt trong một thời gian ngắn
đến như thế. Điều đó càng có ý nghĩa lớn lao khi cuộc kháng chiến chống Thanh
diễn ra vào lúc chế độ phong kiến suy tàn, kẻ thù có sẵn chỗ dựa bên trong là
bọn phong kiến phản động, và quân xâm lược đã chiếm được kinh thành cùng nhiều
vùng rộng lớn chung quanh. Mùa xuân rực rỡ chiến công năm Kỷ Dậu (1789) vì thế
đã di vào lịch sử dân tộc và lòng người Việt Nam như một trong những mùa Xuân
kỳ diệu nhất tiêu biểu sức sống phi thường, ý chí kiên cường và năng lực sáng
tạo phong phú của dân tộc ta.
Trong toàn bộ cuộc kháng chiến, chiến thắng Ngọc Hồi, Đống Da
(Khương Thượng) giữ vai trò những trận quyết chiến chiến lược có ý nghĩa quyết
định, kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh yêu nước.
Nhìn riêng từng hướng tiến công thì trận Ngọc Hồi là trận quyết
chiến trên hướng tiến công chủ yếu và trận Đống Đa (Khương Thượng) là trận
quyết chiến trên hướng tiến công thứ yếu.
Với chiến thắng Ngọc Hồi, quân Tây Sơn đã san bằng một cứ điểm
kiên cố nhất của địch, đập nát hệ thống phòng thủ chủ yếu ở phía nam Thăng
Long, tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực tinh nhuệ nhất của địch.
Dưới trướng Tôn Sĩ Nghị, trong bộ chỉ huy đạo quân chủ lực có 5 viên
tướng cao cấp cỡ đề đốc và tổng binh thì ba người (một đề đốc, hai tổng binh)
đã bị giết chết tại trận Ngọc Hồi. Vua Thanh coi đó là những tổn thất làm “sứt
mẻ oai nước tổn hại tướng sĩ” (An Nam quân doanh kỷ yếu, sách đã dẫn, q. 6,
tr.37) và sai đem thờ những viên tướng tử trận đó vào đền Chiêu Trung. Riêng đề
đốc Hứa Thế Hanh, vua Thanh coi là một “đề trấn đại viên”, vừa được phong tước
tử, nay lại được truy phong tước bá.
Với chiến thắng Đống Đa, quân Tây Sơn nhanh chóng tiêu diệt một
đồn binh quan trọng bảo vệ trực tiếp cửa ô tây - nam thành Thăng Long rồi thừa
thắng lao thẳng vào sào huyệt trung tâm của địch.
Mỗi trận đánh có vị trí và tác dụng trực tiếp của nó, nhưng điều
quan trọng là sự phối hợp nhịp nhàng và hỗ trợ đắc lực của hai trận quyết chiến
đó đã tạo nên giá trị chiến lược quyết định dối với toàn cục chiến tranh, làm
đảo lộn và sụp đổ hoàn toàn, nhanh chóng thế trận của địch.
Trận Ngọc Hồi là trận tiến công chính diện nhằm đập nát vị trí
then chốt trong hệ thống phòng thủ cứng rắn phía trước, đồng thời thu hút chủ
lực địch và sự chú ý của bộ chỉ huy địch. Trong lúc đó, trận Đống Đa là trận vu
hồi, thọc sâu hết sức bất ngờ, đánh thẳng vào một cửa ngõ thành Thăng Long và
cũng là chỗ sơ hở, chỗ yếu của địch để trực tiếp uy hiếp bộ chỉ huy đầu não của
dịch. Sự phối hợp của hai trận đánh làm cho quân địch bị chia cắt, cô lập không
thể ứng cứu được cho nhau và đặc biệt, làm cho Tôn Sĩ Nghị cùng với đạo quân
chủ lực, cơ động to lớn của địch, bị lâm vào tình thế bất ngờ, bị động nghiêm
trọng không kịp phát huy được tác dụng gì và cuối cùng bị tê liệt tan rã, bỏ
chạy tán loạn.
Mối quan hệ giữa hai trận Ngọc Hồi và Đống Đa nằm trong mối quan
hệ giữa chính binh và kỳ binh trong thế trận “chính hợp, kỳ thắng” được Quang
Trung vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo. Khi tiến vào Thăng Long, gặp đô
đốc Đông đem quân ra đón, Quang Trung khen ngợi: “Việc quân cốt ở thần tốc,
tướng quân đánh một trận mà thành công, ta đến sau thật là xấu hổ”. Đô đốc Đông
trả lời: “Chúa Thượng đem chính binh đánh phía trước, thần đem kỳ binh lẻn đánh
phía sau, đang đêm nhân khi giặc không phòng bị mà đánh nên dễ thành công. Vả lại
Nghi Đống không phải là người có tài làm tướng. Đánh được địch là nhờ oai linh
của chúa Thượng và sự cố gắng của các tướng” (Minh đô sử, sách đã dẫn. q.44.
Sách chép đô đốc Long nhưng theo chúng tôi có lẽ là đô đốc Đông). Câu chuyện
cho thấy rõ ý đồ và thế trận của Quang Trung cũng như nhận thức sâu sắc của các
tướng lĩnh Tây Sơn về vai trò, nhiệm vụ của đạo quân do mình phụ trách trong
mối quan hệ hữu cơ giữa chính binh và kỳ binh của một kế hoạch tác chiến thống
nhất.
Chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa đã giáng những đòn quyết định đập
tan cuộc chiến tranh xâm lược của quân Thanh, đè bẹp ý chí xâm lược của kẻ thù.
Chiến thắng lừng lẫy đó biểu thị tập trung tài năng quân sự kiệt xuất của anh
hùng Nguyễn Huệ, ý chí quyết chiển quyết thắng và bản lĩnh chiến đấu cao cường
của quân đội Tây Sơn, sự tham gia và ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân.
Quang Trung Nguyễn Huệ là thủ lĩnh tối cao của phong trào cách
mạng nông dân Tây Sơn, là người tổ chức và lãnh đạo cuộc kháng chiến, lại cũng
là người trực tiếp đảm nhiệm hướng tiến công chủ yếu, đích thân chỉ huy trận
Ngọc Hồi, trận quyết chiến gay go, ác liệt nhất và giữ vai trò định đoạt nhất,
Quang Trung đã đưa nghệ thuật thực hành quyết chiến, chiến lược lên một bước
phát triển mới với nhiều nét độc đáo sáng tạo. Tuy với lực lượng so sánh chỉ
bằng khoảng một phần ba quân địch, nhưng Quang Trung đã sớm tạo nên ưu thế và
nhiều mặt, nhanh chóng giành lại quyền chủ động, nắm đúng thời cơ và xác định
chính xác hướng tiến công chủ yếu, thứ yếu, bổ trợ để tạo nên một thế trận hoàn
chỉnh, lợi hại, sử dụng binh lực một cách hợp lý với hiệu suất chiến đáu cao
nhất. Trong chỉ đạo tác chiến, Quang Trung nêu cao phương châm đánh nhanh, giải
quyết nhanh; tận dụng và phát huy cao độ yếu tố bất ngờ.
Trên hướng tiến công chủ yếu, quân đội Tây Sơn phải san bằng
hàng loạt đồn lũy của địch trên một chiến tuyến dài gần 90 km, mà vẫn bảo đảm
tốc độ tiến công trung bình khoảng 18 km một ngày. Đó là tốc độ đạt mức kỷ lục
trong điều kiện và phương tiện giao thông thời bấy giờ. Trận Đống Đa (Khương
Thượng) là một trận đánh tiêu diệt nhanh, gọn, chỉ diễn ra trong khoảng từ canh
tư sang canh năm. Trận Ngọc Hồi rất quyết liệt cũng chỉ đóng khung trong một
buổi sáng. Lối đánh thần tốc của quân Tây Sơn đã làm cho kẻ thù khiếp sợ, không
kịp trở tay đối phó. Chúng nói quân Tây Sơn “ẩn hiện như quỷ thần”, như “ở trên
trời xuống”, “ở dưới đất chui lên”; “hành binh như bay, tiến quân rất gấp...,
đi lại vùn vụt mau chóng như thần, chống không thể được, đuổi không thể kịp”
(Hoàng Lê nhất thống chí, sách đã dẫn, tr.356, 365, 238).
Ph. Ăng-ghen có nói rằng: “Cũng giống như trong thương nghiệp có
câu “thời giờ là vàng bạc”, trong chiến tranh cũng có thể nói rằng: “thời giờ
là bộ đội”“ (Ph. Ăng-ghen, Tiến trình cuộc chiến tranh ở Thổ, trích dẫn trong
Trích luận văn quân sự, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1964, tr.139).
Sự vận động và cơ động hết sức nhanh chóng của quân đội Tây Sơn
là một nhân tố trọng yếu bảo đảm giành thời cơ phát huy sự bất ngờ và bù đắp
chỗ yếu về số lượng quân đội.
Trong toàn bộ diễn biến của cuộc quyết chiến chiến lược, quân
địch đã bị đẩy từ bất ngờ này đến bất ngờ khác, từ thất bại này đến thất bại
khác và cuối cùng bị tiêu diệt hoàn toàn. Những đồn trại từ Gián Khẩu đến Ngọc
Hồi lần lượt bị diệt gọn, hết sức bất ngờ trong ba ngày đầu xuân Kỷ Dậu (từ đêm
giao thừa đến tối ngày mồng 3). Đồn Ngọc Hồi được chuẩn bị và đề phòng trước,
nhưng cũng hoàn toàn bất ngờ trước lối đánh mưu trí, sáng tạo của Quang Trung.
Đồn Đống Đa bị tiêu diệt quá nhanh là một tiếng sét đánh không kịp bịt tai đối
với Tôn Sĩ Nghị. Những đòn bất ngờ liên tiếp và khủng khiếp dó làm cho viên đại
tướng tổng chỉ huy quân Thanh “sợ mất mật”, “bủn rủn cả chân tay” và chỉ còn có
cách tháo chạy để lo bảo toàn lấy thân mình.
Kế hoạch tác chiến của Quang Trung đã được quân đội Tây Sơn thực
hiện một cách hoàn hảo, giành thắng lợi rực rỡ. Giữa các hướng và trong từng
trận đánh, các đạo quân và binh chủng Tây Sơn đã phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng
và hiệp đồng chiến đấu đến mức độ chuẩn xác. Trong điều kiện giao thông và
thông tin liên lạc thô sơ thời bấy giờ, đó cũng là một thành tựu xuất sắc không
những do sự cố gắng lớn lao của quân đội mà còn chứng tỏ trình độ tính toán
khoa học của người chỉ huy.
Trong những trận quyết chiến trên, quân đội Tây Sơn còn vận dụng
linh hoạt nhiều hình thức và thủ đoạn chiến thuật phong phú từ công đồn, tập
kích đến truy kích, nghi binh chặn địch, bao vây vu hồi. Cả hai hình thức tác
chiến: tiến công trận địa và tiến công vân động đều được Quang Trung sử dụng
rất thành công, và hơn thế nữa, còn được kết hợp với nhau rất tài tình.
Qua chiến thắng Ngọc Hồi, Đống Đa, thấy nổi bật lên trong nghệ
thuật tổ chức và chỉ huy chiến đấu của Quang Trung, quyết tâm triệt để tiêu
diệt địch, tinh thần tiến công chủ động, liên tục, nhanh chóng, mãnh liệt, “Ưu
điểm trội nhất của cuộc kháng chiến đời Nguyễn Quang Trung là tiến công nhanh
chóng và mãnh liệt” (Trường Chinh, Kháng chiến nhất định thắng lợi, Nhà xuất
bản Sự thật, Hà Nội, 1955, tr.6). Đó là nhận xét tổng quát của đồng chí Trường
Chinh về nghệ thuật quân sự của Quang Trung.
Khác với những cuộc chiến tranh chống ngoại xâm trước đây, kháng
chiến chống Thanh cuối thế kỷ XVIII là một cuộc “chiến tranh nhân dân phát
triển từ phong trào cách mạng nông dân Tây Sơn chống bọn phong kiến thối nát
trong nước và chống ngoại xâm” (Võ Nguyên Giáp, Đường lối quân sự của Đảng là
ngọn cờ trăm trận trăm thắng của chiến tranh nhân dân ở nước ta, Nhà xuất bản
Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1973, tr.26). Tinh thần chiến đấu của quân đội và
vai trò của nhân dân vì thế có những bước phát triển mới và cũng thể hiện tập
trung nhất trong những giờ phút thử thách gay go nhất của cuộc kháng chiến:
những trận quyết chiến chiến lược.
Trong năm ngày đêm liền, quân đội Tây Sơn gần như hành quân,
chiến đấu và chuẩn bị chiến đấu liên tục. Nghĩa quân đã vượt qua mọi khó khăn,
gian khổ, chiến đấu ngoan cường, không biết mệt mỏi. Đặc biệt trong trận Ngọc
Hồi, Đống Đa, quân Tây Sơn đã chiến đấu với tác phong dũng mãnh vô song, với
khí thế áp đảo quân thù. Chính kẻ thù cũng phải công nhận sức tiến công của
quân Tây Sơn “như nước thủy triều dâng lên”. Tinh thần và khí thế đó là kết quả
rèn luyện, cổ vũ của phong trào cách mạng nông dân Tây Sơn và sự động viên, bồi
dưỡng không ngừng của vị lãnh tụ của họ là Quang Trung. Nó được đúc kết bằng
tinh thần quật cường bất khuất của quần chúng nông dân kết hợp với lòng yêu
nước tha thiết và ý thức dân tộc sâu sắc. Đó là nguồn sức mạnh tinh thần vô
địch của quân đội Tây Sơn.
Vốn là quân đội của nông dân phát triển lên thành quân đội của
dân tộc, quân Tây Sơn luôn luôn chiến đấu trong sự tham gia ủng hộ mạnh mẽ,
nhiệt tình của nhân dân. Vai trò của nhân dân ở đây là vai trò tự giác, chủ
động định đoạt.
Trong cuộc kháng chiến chống quân Thanh, ngọn cờ cứu nước của
Tây Sơn trở thành ngọn cờ đại nghĩa của dân tộc. Mọi tầng lớp yêu nước dã thực
sự đoàn kết lại dưới lá cờ đó và đóng góp công sức, xương máu tạo nên thắng lợi
huy hoàng của cuộc kháng chiến. ở đây ngoài nông dân là lực lượng dông đảo, giữ
vai trò định đoạt, còn có sự tham gia tích cực của những thành phần xã hội
khác, trong dó có cả bộ phận yêu nước trong giai cấp phong kiến. Trong bộ chỉ
huy quân đội Tây Sơn có một số sĩ phu, quan lại cao cấp của chính quyền Lê -
Trịnh trước đây như tiến sĩ Ngô Thì Nhậm, võ tướng Đặng Tiến Đông... Có người
mang ý thức “trung quân” nặng nề như Nguyễn Thiếp, cuối cùng với lòng yêu nước
cũng đã tham gia cuộc kháng chiến cứu nước. Nhân dân không những đã tự nguyện
cho con em trai tráng gia nhập dội ngũ nghĩa quân mà còn tiếp tế lương thực,
phục vụ chiến đấu và có khi trực tiếp tham gia chiến đấu.
Quân Tây Sơn thực hành quyết chiến vào những ngày Tết cổ truyền
của dân tộc. Nhân dân đã mang lương thực, nhất là các thứ quà Tết như bánh
chưng, rượu thịt... tiếp tế cho quân đội. Ngoài những kho lương được chuẩn bị
trước, lực lượng hậu cần tại chỗ của nhân nhân giữ vai trò quan trọng bảo đảm
cho quân đội Tây Sơn. Có thể vận động nhanh chóng và chiến đấu liên tục. Riêng
vùng Ngọc Hồi, nhân dân đã đón tiếp những người anh hùng vừa giải phóng quê
hương mình một cách rất nồng nhiệt. Nhân dân bày quà bánh bên đường để khao
thưởng quân sĩ và hoan nghênh Quang Trung với tấm biển mang bốn chữ lớn “Hậu
lai kỳ tô” (vua đến dân được sống lại). Quang Trung cảm động nhận lấy quà tặng
của nhân dân và tặng lại bốn chữ “Hiếu nghĩa khả phong” (tấm lòng chuộng nghĩa đáng
khen).
Nhân dân vùng Hà Hồi, Ngọc Hồi còn đem cả rơm rạ, những tấm ván
cửa, ván nằm và tự lấy những tấm ván cửa đình, cửa chùa trong làng ủng hộ nghĩa
quân đánh giặc.
Nhân dân địa phương còn bằng cách này hay cách khác trực tiếp
tham gia vào những trận quyết chiến. Khi đạo quân của đại đô đốc Bảo tiến ra
tập kết ở Đại Áng, lập tức nhân dân địa phương bao gồm cả thanh niên và cụ già,
đã hăng hái xin gia nhập đội ngũ. Dân làng đến nay vẫn ghi nhớ và tự hào về
“đội quân đầu bạc” của các cụ già có mặt trong trận Đầm Mực và trong đội ngũ
quân Tây Sơn tiến về giải phóng Thăng Long. Đặc biệt, nhân dân 9 xã chung quanh
Khương Thượng còn tự chế ra những “con rồng lửa” để lập nên trận hỏa công bao
vây đồn trại giặc.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Thanh mà tiêu biểu và quyết
định là chiến thắng Ngọc Hồi, Đống Đa là một trong những vũ công hiển hách nhất
trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc, mãi mãi là niềm tự hào của người
Việt Nam. Tự hào về sức sống kỳ diệu của một dân tộc anh hùng sáng người lý
tưởng Độc lập Tự do. Tự hào về vai trò chủ động và định đoạt của nhân dân ta
trong giờ phút hiểm nghèo của lịch sử dù cho chế độ phong kiến suy tàn, giai
cấp phong kiến phản bội dân tộc. Tự hào về nghệ thuật quân sự Việt Nam giàu
tính độc đáo, sáng tạo, về người anh hùng bách chiến bách thắng, nhà quân sự
thiên tài Nguyễn Huệ .