Từ
trước tới nay, câu chuyện cổ tích giản lược về Chử Đồng Tử và Tiên Dung
thường hay làm dấy lên thắc mắc trong lòng người đọc: Tại sao công chúa
Tiên Dung lại dám tự ý kết duyên không theo lệnh vua cha, Một câu
chuyện gặp nhau trần trong phòng tắm ngoài trời, có gì mà đáng để lưu
lại ngàn đời như vậy và có thể khiến trở thành một trong tứ bất tử ở
Việt Nam.
Đó
chính là bởi vì những gì tinh túy nhất, thâm sâu nhất đã bị giản lược
đi, chỉ để lại hiện tượng bề mặt đọc qua thấy trần trụi và thô tục.
Người đời sau tiếp đó lại gán cho câu chuyện sử những ý nghĩa theo nhu
cầu của những con người hiện đại: quyền tự do yêu đương.
Sự thực có phải như vậy không?
Ý nghĩa của bản gốc: Hết thảy đều hành sự thuận theo Thiên ý
Khi
những câu chuyện được truyền lại đời này qua đời khác, người ta đã tự ý
sửa lại theo nhận thức và quan niệm của mình. Vì càng ngày con người
càng không tin thực sự có tồn tại Thần Phật, nên những chi tiết nguồn
gốc “Tiên cốt” của các nhân vật hay các tình tiết thần thoại thường bị
lược bớt đi sau này (“tiên cốt” hay “cốt tiên” nghĩa là nhân vật vốn có
nguồn gốc Thần Tiên trên thượng giới đầu thai làm người phàm).
Thay
vào đó, các đời sau chỉ chép lại nội dung bề mặt, mô tả nhân vật như
những con người gốc gác hoàn toàn phàm tục, và đưa vào những ý nghĩa phù
hợp với quan niệm của mình.
Như
đề cập tới trong phần 3: Tứ bất tử của Việt Nam, họ là ai, Chử Đồng Tử
được tôn Chử Đạo Tổ (Đạo Tiên). Bản thần tích gốc về câu chuyện Chử Đồng
Tử và Tiên Dung do Nguyễn Bình soạn vào năm 1572 toát lên ý nghĩa:
Chử
Đồng Tử và nhị vị phu nhân vốn đều nguồn gốc Tiên trên thượng giới
xuống theo Thiên ý để thực hiện sứ mệnh của mình. Hoàn cảnh gặp gỡ kỳ lạ
hay hôn nhân tự nguyện rốt cuộc chỉ cái cớ tác thành để họ cùng nhau
thực hiện sứ mệnh giúp dân giúp nước và đặt định tín ngưỡng Phật Đạo
Thần cho dân tộc Việt
Hết
thảy hành động của họ đều thuận theo Thiên Ý (ý trời). Câu chuyện gốc
cổ nhất về Chử Đồng Tử và nhị vị phu nhân hoàn toàn không có ý nghĩa
quyền tự do yêu đương.
[Qua
câu chuyện gốc, các nhân vật đều toát lên sự thanh thoát cao thượng,
điềm tĩnh, không chút dung tục phàm trần, không màng danh, lợi, tình ái.
Họ chỉ đơn giản là tùy duyên để thực hiện vai diễn dưới hạ giới, đắc
đạo, hành đạo, cứu nhân trước khi bay trở về Thiên giới.]
Chúng ta cùng đi vào tình tiết chính của câu chuyện:
Vua Hùng thứ 18, là vua Hùng Duệ Vương, sinh được một người con gái đẹp như tiên vì thế đặt tên là Tiên Dung.
Ngay
trước lúc sinh công chúa, nhà vua nằm mộng thấy mình bồng trên tay một
bé gái có mây ngũ sắc vờn quanh. Đêm ấy hoàng hậu thụ thai rồi sinh ra
công chúa Tiên Dung.
Tiên
Dung xinh đẹp, nết na hiếu thảo. Năm Tiên Dung 16 tuổi nhiều Lạc Hầu,
Lạc Tướng đều nhắm nhe muốn xin làm con rể vua Hùng; thái tử con vua
nước phương Bắc, Hoàng đế nước láng giềng phía Nam cũng gửi lễ vật xin
được ra mắt Tiên Dung.
Hết
thảy lời cầu xin Tiên Dung đều từ chối. Không phải nàng trịch thượng
kiêu kỳ, hay muốn quyền tự do lựa chọn, mà là nàng chờ đợi Thiên Ý.
Công chúa cúi đầu tâu với vua cha: Muôn tâu Phụ vương, con trộm nghĩ truyện trăm năm do Trời Đất sắp đặt, việc lúc nào đến sẽ đến, con đâu dám trái mệnh trời.
Vua
Hùng nghe hài lòng, không ép. Lại thể theo ý nguyện của Tiên Dung, nhà
vua truyền cấp cho chiếc thuyền lớn để nàng đi du ngoạn khắp nơi. Công
chúa tâu với vua cha: Muôn tâu con mong muốn biết các thần
dân của phụ vương sống ra sao, muốn xem bờ cõi phụ vương mở rộng tới
đâu, núi sông tươi đẹp như thế nào.
Lần ấy công chúa Tiên Dung cho thuyền xuôi dòng sông Cái đi mãi về xuôi.
Giữa
những bãi dâu, lũy tre, đồng lúa xanh rì, con sông uốn khúc đưa thuyền
công chúa trôi mãi tựa như có một bàn tay vô hình đưa đẩy. Đứng tựa mạn
thuyền, chợt công chúa thấy qua khúc ngoặt hiện ra trước mắt mình một
bãi cát vàng chạy dài tít tắp. Sao đây chưa phải là bờ biển, sao đây
không gần núi đá cao mà lại có bãi cát mịn sạch bong như thế này?
Tiên
Dung truyền lệnh cắm sào lên bãi cát dạo chơi. Nước sông trong vắt,
sóng lăn tăn vỗ quanh mạn thuyền, bãi cát phẳng lỳ chưa hề có dấu chân
người. Tiên Dung tung lên bãi quả còn, thế là cả đám thị nữ ùa theo.
Tiên Dung truyền vây màn, cho nàng tắm mát.
Nước
mát lạnh khi nàng dội mấy chục gáo nước và vì thế không hề hay biết cát
khô dưới chân bị nước cuốn trôi để lộ ra cái đầu, tảng ngực trần và
toàn bộ thân thể một người con trai, cũng giống nàng, không một mảnh vải
che thân. Công chúa suýt kêu lên một tiếng gọi thị nữ. Vừa lúc người
kia ngửng lên, Tiên Dung kịp nhận ra gương mặt chàng trai hai mắt mở to,
vẻ còn sợ hãi hơn nàng. Tiên Dung hỏi: Người là ai? sao lại ở đây? Chàng trai đáp: Thưa tôi họ Chử, làm nghề đánh cá, nhà ở gần đây thôi. Tôi … Công chúa lại hỏi tiếp: Vậy nhà ngươi mắc tội gì? Vì sao phải đi trốn như thế này? Chàng trai vẫn nằm yên trên cát, trả lời: Tôi
không có tội gì cả, chỉ vì tôi nghèo, không có quần áo che thân nên khi
thấy người lạ, phải chui vào bãi cát, bụi lau lẩn trốn…
Nơi bãi cát Chử Đồng Tử trốn, nay chính là Xã Tự Nhiên, huyện Thường Tín, Hà Nội
Không
thể kéo dài cả hai trong cảnh ngộ như thế này. Tiên Dung ném cho chàng
trai cái khăn và gọi chàng trai đứng dậy, ngắm nhìn gương mặt thuần
hậu của chàng, nàng hỏi tiếp: Chuyện của chàng hẳn là dài lắm?
Tên chàng là Chử Đồng Tử. Đồng Tử quê ở Chử Xá (nay thuộc xã Văn Đức, Huyện Gia Lâm, Hà Nội).
Cha
chàng là Chử Cù Vân, mẹ tên Bùi Thị Gia. Một này kia, trong lúc ông bà
Chử đi vắng, đột nhiên ngọn lửa bốc lên thiêu trụi căn nhà nhỏ, không để
lại chút gì dù chỉ là cái bát mẻ để ăn cơm. Rồi sau đó bà Gia ốm nặng,
và mất. Từ đấy cha con Chử Đồng Tử lủi thủi bên nhau, cuộc sống vô cùng
nghèo khổ. Có lẽ trên thế gian này chưa có ai nghèo như bố con họ Chử,
nghèo đến mức cả nhà chỉ có một chiếc khố dùng chung. Suốt ngày, hai
người ngâm mình dưới nước đánh bắt cá, mỗi lần có việc phải tiếp xúc với
người ngoài hoặc đi chợ bán cá, mua gạo thì cha nhường con, con nhường
cha mặc khố lên bờ.
Trước khi ra đi, ông Chử Cù Vân dặn con: Bố chết đã có đất cát vùi kín. Con ở trần gian không thể ở trần đi ra ngoài, nên giữ khố này để mà dùng.
Nhưng Đồng Tử đã ngăn lại và nói: Bố cứ yên lòng. Con sống ở đời chịu khó làm ăn sẽ mua được nhiều quần áo.
Không thể để cha chết trần. Chử Đồng Tử quỳ lạy cha xin tha tội bất hiếu, đóng khố cho cha cẩn thận rồi mới đem chôn.
Cũng
từ đấy Chử Đồng Tử thường suốt ngày lặn ngụp đánh cá ở những quãng sông
vắng. Mỗi lần gặp thuyền buôn đi qua chàng cứ phải đứng ngâm nửa mình
dưới nước.
Sẽ không ai biết trên đời có một chàng Chử Đồng Tử hiếu thảo nhường ấy, nghèo khổ nhường ấy, nếu như…
Thiên duyên kỳ ngộ: cuộc gặp gỡ của hai người có sự dẫn dắt của Trời
… Chử Đồng Tử bạo dần lên, kể tiếp: Tôi
đang đánh cá thì nghe tiếng đàn hát, cười nói. Sự tình hoảng hốt còn
phân vân chưa biết tính sao thì thuyền đã lướt tới. Cũng vì hôm nay tôi
mải đuổi bắt một con cá to. Khi đầu nó nhô lên, hai mắt như hai viên
ngọc, vẩy bạc óng ánh. Cứ mỗi lần con cá quẫy đuôi là tôi lao tiếp theo
vài sải. Những tưởng mười mươi chộp được, ai ngờ nó lặn mất tăm, ngẩng
đầu lên đã thấy buồm gấm như một đám mây phủ sẫm mặt nước. Tôi chỉ còn
cách xấp ngửa chạy lên bờ như mọi khi tìm bụi lau chui vào ẩn nấp.
Nhưng… quanh mình chỉ thấy bãi cát trống trơn. Thưa, bãi cát… như là con
sông theo lệnh Long Vương rút cạn nước mà nên sự tình. Vì quãng sông
này tôi thường lui tới. Vừa mới hôm qua tôi còn ở đây mà chưa hề thấy.
Tôi càng chạy cát càng lún dưới chân, ngoảnh nhìn lại thấy thuyền đã đậu
bên bờ. Thuyền đậu mà vừa to vừa lạ. Tôi chỉ còn cách moi cát vùi mình
xuống. Tưởng cố nằm chờ, mọi sự sẽ qua đi. Ai ngờ…
Chử
Đồng Tử vừa ở nơi đó hôm qua còn chưa có bãi cát này, rồi lại được dẫn
dắt để đuổi theo con cá mà tới địa điểm gặp gỡ, nào có gì là ngẫu nhiên,
đó đều là do Trời sắp đặt, là ý Trời dẫn dắt.
Đến lượt Tiên Dung tự kể chuyện mình: Thiếp là con gái vua Hùng… Chử Đồng Tử giật mình quỳ xuống: Tôi không được biết, xin tha tội chết. Tiên Dung vội bước lên, nâng chàng dậy.
Nàng Tiên Dung chắp hai tay trước ngực, mặt ngửa nhìn trời: Tôi đã nguyện không lấy chồng nhưng hôm nay gặp chàng trai trong cảnh ngộ này cũng là do Trời Đất xếp đặt xui khiến.
Nói
rồi nàng vén màn truyền thị nữ mang thêm cho một bộ quần áo, bộ nam
trang luôn có sẵn trên thuyền đã một lần công chúa mặc cải dạng lên bờ
trảy hội.
Tất
cả thị nữ đều kinh ngạc mở to mắt khi thấy nữ chủ nhân của mình từ
trong màn bước ra bên một chàng trai tuấn tú. Hai người sánh vai nhau
bước xuống thuyền.
Công
chúa kể lại sự tình cho các thị nữ cùng nghe rồi truyền mở tiệc hoa. Từ
lúc bước chân lên thuyền, bước vào một thế giới mới giàu sang quyền
quý, lại biết mình sẽ kết vợ chồng cùng công chúa, Chử Đồng Tử có ý từ
chối. Nhưng Tiên Dung nói: “Ta làm theo ý Trời, là do duyên Trời tác hợp, chàng việc gì mà lo ngại?”
Hai
người bước ra đầu thuyền quỳ trên chiếc chiếu đậu. Trước mặt là hương
án bày đĩa hoa, bát nước và ba nén hương. Đôi vợ chồng trẻ khấn lạy cảm
ơn sự tác thành của Trời Đất, cầu xin các đấng thần linh chứng giám.
Công chúa Tiên Dung: Mời
chàng sang nghỉ phòng bên. Thiếp đã cho người về báo với vua Cha, Mẫu
Hậu và Thái Trưởng công chúa, Duyên khánh công chúa, Thái Hiến công
chúa. Khi nào được phép chúng ta sẽ thành thân. Bổn phận làm con, phải
giữ tròn chữ hiếu, chữ trinh.
Người thị nữ cầm giá nến đi trước dẫn đường, Chử Đồng Tử theo sau.
Nào ngờ… Nghe con gái cử người về báo tin, vua Hùng nổi giận: Tiên
Dung không biết trọng danh tiết, đi chơi giữa đường lại hạ giá, lấy
người nghèo. Thiếu gì vương tôn công tử mà đi lấy một người không rõ gốc
gác. Từ nay mặc kệ nó, không cho trở về nữa.
Nhập thế gian
Thế
là chàng Chử Đồng Tử không khoác áo phò mã cưỡi ngựa hồi cung. Còn công
chúa Tiên Dung bán hết ngọc ngà châu báu đổi lấy bộ quần áo nâu sồng
trở thành một cô gái nơi quê mùa cùng chồng xây dựng tổ ấm.
Đôi
vợ chồng trẻ không về Chử Xá, làm nhà mới ở xuôi phía dưới nơi mà sáng
sáng chỉ cần chống cửa là nhìn ngay thấy bãi cát trời đất xếp đặt cho
hai người gặp nhau.
Thế
rồi mưa thuận gió hòa, thóc đầy bồ, tôm cá đầy khoang, nơi Chử Đồng Tử –
Tiên Dung ở, người theo về quần cư ngày càng đông vui. Làng thêm xóm
mới. Chợ thêm phiên, lều quán kéo dài. Bến sông kè đá. Thuyền to không
biết từ phương xa nào tới mang theo nhiều hàng quý hiếm.
Một hôm Tiên Dung bàn với Chử Đồng Tử: Thiếp
nghe người khách buôn phương xa mới tới đây nói rằng đất mình nhiều sản
vật quý… Nếu biết vượt biển mang bán tận phương xa thì sau mỗi chuyến
đi một dật vàng lãi thành mười dật. Chàng thấy thế nào?
Ban đầu Đồng Tử gạt đi: Trước đây ta nghèo đến mức không có cả đến cái khố mà mặc, nay được giàu có sung sướng thế này là mang ơn trời đất lắm rồi.
Tiên Dung: Nếu
mộng giàu sang thì thiếp đã chẳng theo chàng. Ngoài đất nước ta, còn có
núi sông nào nữa? Ngoài thế giới ta đang sống, còn có thế giới nào nữa?
Chàng hãy nghe em, thử một chuyến đi xa.
[Có lẽ đây chính là thiên ý. Chử Đồng Tử cần phải đi để gặp Thầy gặp Đạo]
Gặp Sư Phụ và đắc đạo
Chử
Đồng Tử nghe lời háo hức lên thuyền cùng người khách thương vượt biển.
Sau ba ngày ba đêm, thuyền thả leo dưới chân một đảo vắng lấy thêm nước
ngọt. Trong khi các thùy thủ sửa sang buồm lái thì Chử Đồng Tử lững
thững lên bờ dạo chơi. Chàng thấy hòn đảo xanh tươi, phong cảnh đẹp lạ
kỳ, con chim có tiếng hót lạ như dụ chàng vui chân đi tiếp, đi mãi sâu
vào bên trong đảo. Chử Đồng Tử ngửng đầu lên nhìn thấy chót vót trên núi
cao một cái am cỏ. Từ trong khe núi có một cụ già râu tóc bạc phơ bước
ra. Ông cụ đầu đội nón mây, tay lê gậy trúc, chân dậm hài cỏ vừa đi vừa
phất tay áo rộng, hát rằng:
Núi cao chót vót nước lại thâm
Trong cõi trần ai kẻ tri âm
Ai kẻ tri âm thời đồng tâm
Đồng tâm xin kết bạn giai âm
Kết bạn giai âm muôn dặm cũng tầm
Vui với núi cao cùng nước thâm.
Chử Đồng Tử đón sẵn bên đường, vái lạy: Tôi trộm nghe câu hát, biết mình có phúc được gặp bậc tiên. Dám xin rủ lòng cho theo học đạo.
Ông cụ nói: [Ta chờ con đã lâu rồi.]
Nói
đoạn quay người đi trước bước chân thoăn thoắt. Đồng Tử theo sau thấy
mình đạp lên đá mà nhẹ như đi trên mây, một chốc tới am cỏ, nhìn xuống
xa vời không thấy bãi đá, cây rừng đâu cả. Ông cụ giữ Chử Đồng Tử ba
ngày, truyền dạy phép thuật.
Trước khi chia tay, cụ cho Chử Đồng Tử một chiếc gậy và một cái nón, dặn: Phép biến hóa ở cả trong hai thứ này.
Chử
Đồng Tử xuống núi, ngoảnh lại đã không thấy am cỏ đâu. Đang hoảng sợ
thì nhìn phía xa chàng thấy trên mặt biển thấp thoáng một cánh buồm vội
dơ tay vẫy gọi. Thuyền ghé vào bờ, không ngờ gặp đúng những người đã
cùng Chử Đồng Tử đi buôn. Người trên thuyền mừng rỡ kể lại hôm ấy Chử
Đồng Tử lên đảo rồi lạc trong khe núi. Mọi người chia nhau tìm kiếm hồi
lâu không thấy đành phải nhổ neo đi tiếp. Ai cũng nghĩ Đồng Tử không còn
nữa. Chuyến buôn nay mới trọn vẹn, mọi người cho thuyền quay mũi dong
buồm về đến đây, tính chuyện lên thắp nén hương. Một người nói: Vừa đúng ba năm… Chử Đồng Tử giật mình nhớ lại:
Chàng ở trên núi chỉ có ba ngày. Thì ra một ngày trên cõi tiên bằng một năm dưới hạ giới.
Tiên
Dung thấy chồng đắc đạo trở về thì mừng lắm. Nàng cũng xin được truyền
dạy phép thuật, cả hai vợ chồng cùng tu luyện rồi đi hành đạo, cứu nhân
độ thế.
Hành đạo cứu người
Tiên Dung nói: Ta
đã hằng sản hằng tâm cứu người nghèo, giúp kẻ khó, làm cho nhiều người
có nhà ở, cơm ăn, áo mặc. Nhưng cái sự đau ốm, tử biệt sinh ly thì vẫn
chưa làm cho trăm họ vợi đau khổ phần nào.
Chử Đồng Tử chỉ vào chiếc gậy, cái nón, nhắc lại lời ông cụ trên am cỏ nói với mình: Phép biến hóa ở cả trong hai vật này.
Phải
năm phát dịch người chết rất nhiều. Có nhà chết không còn một ai. Có
làng đầu xóm, cuối xóm ngày đêm vang tiếng người khóc thảm thiết.
Trước
tai họa của nhân dân, Chử Đồng Tử – Tiên Dung ra tay cứu vớt. Người
chết nằm đó, chỉ cần Chử Đồng Tử cầm gậy thần chỉ thẳng vào là mở mắt
hồi sinh. Nghe tin làng Ông Đình chết nhiều người lắm. Chử Đồng Tử ngả
nón rồi cùng Tiên Dung ngồi lên bơi vun vút qua sông. Khi hai ông bà tới
nơi thì hầu như cả làng không còn bóng người, xác chết nằm phơi khắp
trong nhà ngoài ngõ. Những người đang hấp hối cũng chỉ biết nằm thoi
thóp thở. Chử Đồng Tử phải đến gần cầm gậy đập mấy cái liền vào từng xác
chết, gọi: dậy, dậy mau! Những xác người từ từ mở mắt rồi ngồi
nhỏm dậy. Khi biết mình vừa được sống lại họ quỳ lạy tạ ơn rối rít. Chử
Đồng Tử cười, hỏi: Khỏe hẳn chưa? Đáp: Thưa, khỏe lắm rồi ạ. Chử Đồng Tử: Khỏe thì ra sân vật nhau cho ta xem !
Người
nghe, tất thảy reo hò ầm ĩ kéo nhau ra sân ra bãi ôm nhau, vật nhau
theo tiếng trống thúc dồn dập của người cầm chịch. Nhưng ngoảnh nhìn thì
cứu tinh của họ, ông bà Chử Đồng Tử – Tiên Dung đã đi từ lúc nào. Hẳn
là hai người tiếp tục đi đến những thôn khác, đáp ứng lời nguyện cầu của
dân làng khác đang có dịch bệnh hoành hành.
Từ
ngày đắc đạo, Tiên Dung đã chia hết của cải cho người nghèo trong vùng.
Hai người như hai vị khách lữ hành đi khắp mọi nơi cứu nhân độ thế.
Huyền thuật hiển linh
Một
bữa nọ hai người đang bước mải miết trên đường thì trời xập tối. Làng
xóm còn xa, chung quanh gò hoang, đầm nước vắng vẻ, sương đêm bốc lên
lạnh lẽo. Chử Đồng Tử – Tiên Dung đều cảm thấy mỏi mệt bèn bảo nhau dừng
chân tạm nghỉ. Hai người chọn nơi cao ráo, cắm chiếc gậy xuống, úp cái
nón lên rồi ngồi bên dưới tựa vào vai nhau nhắm mắt thư giãn.
Chẳng
ngờ phép thuật hiển linh. Nửa đêm quanh chỗ hai người ánh sáng chói
lòa. Rồi trong phút chốc cả một tòa thành quách, lâu đài, cung điện hiện
ra. Trời đã sáng, dân đi làm thấy có sự lạ, bảo nhau theo đến rất đông.
Người ta thấy cổng thành cờ xý rực rỡ, lính canh uy nghiêm, voi ngựa ra
vào rầm rập. Nhìn vào bên trong thấy lâu đài tráng lệ, tỳ tướng, quân
hầu, thị nữ đứng giàn hai bên như đang tấu trình công việc. Ngồi trên
giữa chính điện là Chử Đồng Tử – Tiên Dung, mặc áo hoàng bào thêu long
phượng, nét mặt oai nghiêm mà đầy nhân hậu.
Biết
mình có diễm phúc được bậc thiên tiên che chở, dân các miền bảo nhau
kéo về quy phục, lập thành phố xá đông vui như một nơi đô hội.
Khách phương xa tới nước mình trước khi đến Phong Châu đều dừng thuyền lên bờ vào làm lễ ra mắt Chử Đồng Tử – Tiên Dung.
Ngày
tháng trôi qua, Chử Đồng Tử – Tiên Dung mải miết hành nghề cứu dân.
Những lúc rỗi hai người lại ngồi bên nhau trò chuyện. Chử Đồng Tử: Từ ngày làm bạn với nàng cuộc đời ta thay đổi nhưng cũng chưa bao giờ mơ ước được có hôm nay. Tiên Dung đáp: Do có sự xếp đặt của Trời cả thôi.
Chử Đồng Tử lại nói: Như cái sự mong muốn của ta là con người thoát cảnh nghèo nàn được sống ấm lo hạnh phúc thì đã đạt một phần. Tiên Dung lắc đầu: Con người có thể sống dư thừa ấm no, nhưng hạnh phúc thì còn tùy thuộc… Đồng Tử gật đầu:
Nàng
nói chí phải. Ai chẳng biết lúc trăng tròn đầy là đẹp, nhưng không biết
trăng non đầu tháng mọc nơi hoàng hôn, trăng khuyết rụng ngay buổi
bình minh nơi mặt trời mọc. Đạo ta còn phải truyền rộng..
Duyên tiếp duyên và cùng nhau thực hiện sứ mệnh
Hai người lại đi khắp bốn phương, có lần vào tới tận cửa biển Quỳnh Nhai, nay thuộc Nghệ An, khi ấy là biên giới nước ta.
Lần
ấy Chử Đồng Tử – Tiên Dung vừa rời lâu đài đi tới Đông Kim (thuộc xã
Đông Tảo ngày nay) thì gặp một người con gái đang cấy lúa bên đường.
Thấy Chử Đồng Tử dừng ngựa nhìn cô gái, Tiên Dung hiểu ý chồng bèn đế
gần nói với cô: Em là người tiên hay người trần? Thiếu nữ trả lời: Em là Tây Sa, tiên nữ ở Tây cung xuống giả là người trần đó thôi. Cũng như hai vị, nay đã đắc đạo.
Cuộc hội ngộ hôm nay hẳn do ý trời. Tiên Dung nói: Mưu sự tại nhân, hành sự tại Thiên (con người mưu sự, nhưng thực hiện là do Trời).
Chử Đồng Tử hỏi: Ta đã học được đạo cứu giúp con người, các nàng có đi theo ta không? Cả
hai nàng cùng đáp: Cứu người là việc thiện, sao chúng em lại không
theo? Từ đấy Chử Đồng Tử có thêm người vợ thứ, vốn là tiên nữ Tây cung
đầu thai vào một nhà họ Nguyễn có nghề thuốc nam gia truyền, dân trong
vùng quen gọi là nàng Nguyễn.
Nàng
Nguyễn đã về Phong Châu chữa bệnh cho vua Hùng. Khi nhà vua khỏi bệnh
truyền đem lụa, gấm ra tiễn. Nàng Nguyễn cúi đầu lạy tạ, thưa chính công
chúa Tiên Dung nghe tin vua cha ốm đã cử nàng về thay mặt Chử Đồng Tử –
Tiên Dung báo hiếu.
Hoàn thành sứ mệnh trở về thiên quốc
Ảnh: Chử Đồng Tử và nhị vị phu nhân
Nhưng
rồi thanh thế Chử Đồng Tử – Tiên Dung ngày càng rộng lớn. Tiếng đồn về
lòng nhân đức, sự cảm phục tài năng phép thuật cứu được người chết sống
lại càng ngày càng xa. Thêm vào đó những lời đồn đại về cung điện nguy
nga, lâu đài thành quách rộng lớn, phố chợ đông vui, nhiều người về quy
phục đến tai vua Hùng, cố tình gây cho nhà vua lòng nghi ngờ Chử Đồng Tử
– Tiên Dung mưu đồ phản nghịch. Nghe lời sàm tấu nhà vua quyết định cử
tướng mang quân đi đánh bắt Chử Đồng Tử – Tiên Dung về hỏi tội.
Quân
nhà vua sát khí đằng đằng, gươm giáo sáng lóa chỉ một ngày tốc thẳng
tới nơi. Nhưng vì trời tối và còn cách con sông rộng nên các tướng
truyền hạ trại ngày mai sẽ tấn công bắt trói giải nghịch tử nghịch nữ về
triều.
Trong
lâu đài, các tướng của Chử Đồng Tử – Tiên Dung xin được ra nghênh
chiến. Ai cũng muốn có dịp lập công tạ ơn Chử Đồng Tử – Tiên Dung. Ai
cũng muốn làm sáng tỏ nỗi oan ức vì sự hiểu lầm của vua cha.
Nhưng Chử Đồng Tử gạt đi: Việc binh đạo sát hại dân lành là điều ta trước nay không muốn. Tiên Dung cũng khuyên mọi người: Đạo làm con không được chống lại cha. Hai người truyền đóng cửa thành. Nhấc nón, nhổ gậy.
Quan
quân nhà vua còn đang bàn tính. Dân trong vùng còn đang lo lắng chờ
đợi. Thì nửa đêm trời nổi sấm chớp, mưa như trút nước, gió mạnh đổ rạp
ngọn cây.
Tự
nhiên ánh sáng chiếu lòa như giữa ban ngày, những người bạo nhất dám hé
mắt nhìn ra thấy trong tiếng ầm ầm cả tòa lâu đài thành quách của Chử
Đồng Tử – Tiên Dung đang bốc khỏi mặt đất rồi bay vút về trời.
Sau
đó mưa tạnh, gió yên. Cho đến sáng quan quân mới dám cử người đi dò la
rồi lần lượt sang sông. Đến nơi, ai nấy kinh hãi nhìn nhau vì trước mặt
chỉ là một đầm nước rộng mênh mông. Cả tòa thành lớn cùng tiên chủ, quân
hầu không để lại vết tích gì. Đó là đêm 17/11 Âm lịch.
Đền
Hóa Dạ Trạch- Đầm một đêm xã Khoái Châu, Hưng Yên, nổi tiếng linh
thiêng, nơi Chử Đồng Tử và nhị vị phu nhân cùng thành quách bay về trời
Vua Hùng hay tin, về tận nơi xem xét. Bấy giờ mới tường mọi việc. Nhà
vua cho đặt tên đầm là Nhất Dạ Trạch (đầm một đêm). Lại truyền xây miếu
thờ Chử Đồng Tử – Tiên Dung, nhà vua mở đầu lễ dâng hương, dặn nhân dân
địa phương ngày đêm thờ phụng, hàng năm triều đình cử quan đại thần về
làm lễ tưởng niệm. Tất cả những nơi Chử Đồng Tử – Tiên Dung đã tới
truyền đạo, cứu giúp, nhân dân cũng lập đền thờ rất tôn nghiêm.
Tham khảo: Lĩnh Nam chích quái, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Huyền Sử Tiên Dung Chử Đồng Tử (Nguyễn Bình 1572)
Hà Phương Linh
Theo daikynguyenvn