IMS là gì?
IMS, thuật ngữ viết tắt của IP
Multimedia Subsystem, là một kiến trúc mạng nhằm tạo sự thuận tiện cho
việc phát triển và phân phối các dịch vụ đa phương tiện đến người dùng,
bất kể là họ đang kết nối thông qua mạng truy nhập nào. IMS hỗ trợ nhiều
phương thức truy nhập như GSM, UMTS, CDMA2000, truy nhập hữu tuyến băng
rộng như cáp xDSL, cáp quang, cáp truyền hình, cũng như truy nhập vô
tuyến băng rộng WLAN, WiMAX. IMS tạo điều kiện cho các hệ thống mạng
khác nhau có thể tương vận (interoperability) với nhau. IMS hứa hẹn mang
lại nhiều lợi ích cho cả người dùng lẫn nhà cung cấp dịch vụ. Nó đã và
đang được tập trung nghiên cứu cũng như thu hút được sự quan tâm lớn của
giới công nghiệp. Tuy nhiên IMS cũng gặp phải những khó khăn nhất định
và cũng chưa thật sự đủ độ chín để thuyết phục các nhà cung cấp mạng đầu
từ triển khai nó. Kiến trúc IMS được cho là khá phức tạp với nhiều thực
thể và vô số các chức năng khác nhau. Bài viết này giúp bạn đọc có một
cái nhìn tổng quan từ khía cạnh công nghệ của giải pháp IMS. Nó cũng chỉ
ra những lợi ích và khó khăn mà IMS đang phải đương đầu.
Đôi nét về tiến trình chuẩn hóa IMS
IMS được định hình và phát triển bởi
diễn đàn công nghiệp 3G.IP, thành lập năm 1999. Kiến trúc ban đầu của
IMS được xây dựng bởi 3G.IP và sau đó đã được chuẩn hóa bởi 3GPP (3rd
Generation Partnership Project) trong Release 5 công bố tháng 3 năm
2003. Trong phiên bản đầu tiên này, mục đích của IMS là tạo thuận lợi
cho việc phát triển và triển khai dịch vụ mới trên mạng thông tin di
động. Tiếp đến, tổ chức chuẩn hóa 3GPP2 đã xây dựng hệ thống CDMA2000
Multimedia Domain (MMD) nhằm hỗ trợ các dịch vụ đa phương tiện trong
mạng CDMA2000 dựa trên nền 3GPP IMS. Trong Release 6 của 3GPP IMS, cùng
với khuynh hướng tích hợp giữa mạng tế bào và mạng WLAN, mạng truy nhập
WLAN đã được đưa vào như một mạng truy nhập bên cạnh mạng truy nhập tế
bào.
IMS khởi đầu như một chuẩn cho mạng vô
tuyến. Tuy nhiên, cộng đồng mạng hữu tuyến, trong quá trình tìm kiếm một
chuẩn thống nhất, sớm nhận thấy thế mạnh của IMS cho truyền thông hữu
tuyến. Khi đó ETSI (the European Telecommunication Standards Institute)
đã mở rộng chuẩn IMS thành một phần của kiến trúc mạng thế hệ tiếp theo
NGN (Next Generation Network) mà họ đang xây dựng. Tổ chức chuẩn hóa
TISPAN (Telecoms & Internet converged Services and Protocols for
Advanced Networking) trực thuộc ETSI, với mục đích hội tụ mạng thông tin
di động và Internet, đã chuẩn hóa IMS như một hệ thống con của NGN. Kết
hợp với TISPAN, trong Release 7 của IMS, việc cung cấp dịch vụ IMS qua
mạng cố định đã được bổ sung. Năm 2005, phiên bản Release 1 của TISPAN
về NGN được coi như một sự khởi đầu cho hội tụ cố định-di động trong
IMS. Gần đây, 3GPP và TISPAN đã có được một thỏa thuận để cho ra phiên
bản Release 8 của IMS với một kiến trúc IMS chung, có thể hỗ trợ các kết
nối cố định và các dịch vụ như IPTV.
Đa phần các giao thức sử dụng trong IMS
được chuẩn hóa bởi IETF (Internet Engineering Task Force), điển hình
nhất là giao thức tạo phiên SIP (Session Initiation Protocol). Rất nhiều
các phát triển và cải tiến của SIP để hỗ trợ các chức năng theo yêu cầu
của hệ thống IMS đã được đề nghị và chuẩn hóa bởi IETF như SIP hỗ trợ
tính cước, bảo mật v.v. Bên cạnh IETF và TISPAN, một tổ chức chuẩn hóa
khác mà 3GPP hợp tác chặt chẽ trong việc phát triển IMS là Liên minh di
động mở OMA (Open Mobile Alliance) nhằm phát triển các dịch vụ trên nền
IMS. Một trong những dịch vụ do OMA phát triển là Push-to-Talk over
Cellular (PoC) hay OMA SIMPLE Instant Messaging.
Lợi ích của IMS
IMS, tạm dịch là hệ thống con đa phương
tiện IP, không đơn thuần là một nền tảng dịch vụ (service plaftorm) mà
là một kiến trúc mạng dùng để thao tác, quản lý và điểu khiển các dịch
vụ đa phương tiện đến người dùng cố định và di động. IMS định nghĩa một
lớp quản lý dịch vụ chung cho tất cả các loại hình dịch vụ đa phương
tiện, độc lập với loại hình mạng truy nhập mà người dùng đang kết nối.
IMS xây dựng trên nền mạng lõi IP và cho phép nhiều mạng truy nhập khác,
bao gồm cả mạng di động lẫn mạng cố định, kết nối với nhau thông qua
lớp dịch vụ chung để cung cấp các gói dịch vụ hội tụ.
Ngày nay Internet đã trở thành một phần
cuộc sống của hơn 15% số người trên trái đất. Internet cung cấp phương
thức để mọi người có thể liên lạc, trao đổi, tuơng tác và làm việc cùng
với nhau. Trong khi các mạng vận tải dữ liệu không cần thời gian thực
được sử dụng chủ yếu trong thế hệ Internet đầu tiên thì ngày nay các
dịch vụ thời gian thực (hoặc gần thực) với chất lượng dịch vụ QoS cao
ngày càng được phát triển rộng rãi. Sự chuyển đổi theo khuynh hướng hội
tụ nhiều hệ thống mạng khác nhau trên nền toàn IP sẽ sớm trở thành hiện
thực. Trong bối cảnh đó, người dùng trong tương lai mong muốn có các
dịch vụ đa phương tiện chất lượng cao, mang tính cá nhân, có khả năng
tương tác thời gian thực mọi lúc mọi nơi trên mọi thiết bị sử dụng. Điều
này đặt ra nhữnng yêu cầu mới cho kiến trúc hạ tầng mạng viễn thông.
Trong bối cảnh đó, IMS được xem như là một giải pháp hứa hẹn để thỏa mãn
tất cả những mục tiêu kể trên cho một thế hệ mạng tương lai.
Một trong những mục đích đầu tiên của
IMS là giúp cho việc quản lý mạng trở nên dễ dàng hơn bằng cách tách
biệt chức năng điều khiển và chức năng vận tải thông tin. Một cách cụ
thể, IMS là một mạng phủ (overlay), phân phối dịch vụ trên nền hạ tầng
chuyển nối gói. IMS cho phép chuyển dần từ mạng chuyển nối mạch sang
chuyển nối gói trên nền IP, tạo thuận lợi cho việc quản lý mạng thông
tin di động. Việc kết nối giữa mạng cố định và di động đã góp phần vào
tiến trình hội tụ mạng viễn thông trong tương lai. IMS cho phép người
dùng có thể sử dụng một hay nhiều loại thiết bị khác nhau, di chuyển từ
mạng này sang mạng khác mà vẫn có thể dùng cùng một dịch vụ.
Kiến trúc IMS cung cấp nhiều giá trị gia
tăng cho nhà cung cấp mạng, người phát triển ứng dụng, người cung cấp
dịch vụ cũng như người sử dụng các thiết bị đầu cuối. Kiến trúc IMS giúp
các dịch vụ mới được triển khai một cách nhanh chóng với chi phí thấp.
IMS cung cấp khả năng tính cước phức tạp hơn nhiều so với hệ thống tài
khoản trả trước hay trả sau, ví dụ như việc tính cước theo từng dịch vụ
sử dụng hay phân chia cước giữa các nhà cung cấp dịch vụ và nhà cung
cấp mạng. Khách hàng sẽ chỉ nhận một bảng tính cước phí duy nhất từ một
nhà cung cấp mạng thường trú. IMS hứa hẹn mang đến nhiều dịch vụ đa
phương tiên, giàu bản sắc theo yêu cầu và sở thích của từng khách hàng,
do đó tăng sự trải nghiệm của khách hàng (customer experience).
Với IMS, nhà cung cấp mạng sẽ không chỉ
làm công tác vận tải thông tin một cách đơn thuần mà trở thành tâm điểm
trong việc phấn phối dung lượng thông tin trong mạng, đóng vai trò quan
trọng trong việc đảm bảo chất lượng dịch vụ cũng như kịp thời thay đổi
để đáp ứng các tình huống khác nhau của khách hàng.
Điểm yếu hiện tại của IMSTóm lại, IMS tạo thuận lợi cho các nhà cung cấp dịch vụ trong việc xây dựng và triển khai các ứng dụng mới, giúp nhà cung cấp mạng giảm chi phí triển khai, vận hành và quản lý, đồng thời tăng lợi nhuận nhờ các dịch vụ mới. Và cuối cùng IMS mang lại những dịch vụ mới hướng đến sự tiện nghi cho khách hàng.
IMS đang thiếu một mô hình kinh doanh có
sức thuyết phục để các nhà cung cấp mạng chấp nhận triển khai IMS. Điểm
nối bật của IMS là hướng đến một mô hình mạng hội tụ. Tuy nhiên, điều
này không dễ dàng thuyết phục một nhà cung cấp mạng triển khai IMS. Với
IMS, khách hàng đăng ký với một nhà cung cấp mạng (network operator) có
thể dùng dịch vụ của nhiều nhà cung cấp dịch vụ (service providers)
khác nhau. Do vậy, IMS sẽ dẫn đến sự cạnh tranh giữa nhà cung cấp mạng
và những nhà cung cấp dịch vụ nội dung của thế giới Internet (Microsoft,
Google…). Thay vì tăng thêm lợi nhuận nhờ các dịch vụ giá trị gia tăng,
nhà cung cấp mạng có thể sẽ phải chịu thất bại trong việc cạnh tranh
với các nhà cung cấp dịch vụ. Do vậy, nhiều nhà cung cấp mạng đang còn
rất dè dặt khi quyết định triển khai IMS. Đây là một vấn đề mang tính
chiến lược chứ không phải là một vấn đề về công nghệ.
Về mặt kỹ thuật, một trong những điểm
yếu mà nhiều người nhắc đến nhiều nhất là tính bảo mật của IMS. Trong
các yếu tố về bảo mật có thể kể đến các vấn đề liên quan đến quản lý
nhận dạng người dùng bao gồm các lỗi như Call ID spoofing, ăn cắp ID,
tấn cống DoS/DDoS, spam. Điểm yếu bảo mật nằm ở thiết bị SIP vì nó chưa
có một cơ chế chứng nhận thực tốt như trong mạng thông tin di động tế
bào (ví dụ bảo mật qua SIM). Thêm vào đó là sự hội tụ giữa nhiều loại
hình mạng cũng gây không ít khó khăn trong việc quản lý bảo mật. Hiện
tại, Release 8 của 3GPP đang xem xét một cách nghiêm túc vấn đề bảo mật
này.
IMS hướng đến hội tụ, hướng đến việc
nhiều hệ thống, nhiều mạng có thể tương vận với nhau. Tuy nhiên, đây
cũng chính là một khó khăn mà IMS đang gặp phải. Việc các thiết bị có
nguồn gốc từ nhiều nhà sản xuất khác nhau có thể tương vận được với nhau
không phải là một điều dễ dàng. Bên cạnh đó, nhiều giao thức cũng chưa
được chấp nhận và triển khai rộng rãi, ví dụ như trường hợp của giao
thức DIAMETER.
IMS chỉ tập trung đến quản lý dịch vụ,
do đó thiếu các ứng dụng “hấp dẫn” mang đặc thù riêng của IMS. Đa phần
các dịch vụ mà IMS hiện đang hỗ trợ điều có thể thực hiện được không cần
đến IMS (ví dụ sử dụng SIP). Hệ thống IMS khá phức tạp và chi phí để
triển khai một hệ thống như thế là không nhỏ. Bên cạnh đó, hiện chưa có
giải pháp cho việc chuyển tiếp dần từ mạng hiện tại lên IMS. Và một câu
hỏi đặt ra là liệu các nhà cung cấp mạng có thể sử dụng lại những dịch
vụ đã tồn tại mà không cần phải thay đổi quá nhiều. IMS hướng đến dịch
vụ đa phương tiện, tuy nhiên tính đến thời điểm này các dịch vụ như P2P,
IPTV, VPN còn chưa được tích hợp và chuẩn hóa trên nền IMS.
Mặc dù IMS nhắm đến việc đảm bảo chất
lượng dịch vụ nhưng việc đảm bảo chất lượng dịch vụ khi chuyển đổi từ
loại hình mạng này sang loại hình mạng khác (trong môi trường mạng hội
tụ), hay từ mạng của nhà cung cấp mạng này sang mạng của nhà cung cấp
mạng khác vẫn còn là một vấn đế chưa được giải quyết. Kiến trúc IMS
thiếu một thực thể trung tâm để quản lý tài nguyên chung. Bài toán quản
lý di động, chuyển giao giữa nhiều loại hình mạng khác nhau, cũng đặt ra
những khó khăn nhất định cho việc cung cấp quản lý dịch vụ IMS.
Bên cạnh các chức năng kể trên, muốn vận
hành tốt IMS cần phải có các chức năng theo dõi, quản lý và sữa lỗi của
hệ thống. Trong môi trường mạng hội tụ, nếu một cuộc gọi bị rớt, chưa
có một cơ chế nào để có thể xác định vị trí diễn ra lỗi (debugging).
Kết luận
IMS là một giải pháp hứa hẹn cho việc
quản lý dịch vụ trong thế hệ mạng tiếp theo. IMS là một bước đi mang
tính chiến lược lâu dài của nhiều công ty và tập đoàn viễn thông. Trong
thời gian ngắn sắp tới, sẽ còn nhiều thay đổi xoay quanh giải pháp IMS
nhằm hoàn thiện những điểm yếu của nó. Tất cả những giải pháp IMS hiện
tại chỉ là một giải pháp sớm (early IMS). Giải pháp IMS đầy đủ (full
IMS) vẫn còn đang trong giai đoạn nghiên cứu và chuẩn hóa.
Kiến trúc phân hệ IMS
Để tiếp nối bài viết về IMS trước đây, trong bài viết này tôi sẽ giới thiệu tóm lược về kiến trúc IMS.
Kiến trúc IMS được phân thành 3 lớp :
lớp ứng dụng, lớp điều khiển (hay còn gọi là lớp IMS hay IMS lõi) và lớp
vận tải (hay lớp người dùng).
- Lớp dịch vụ bao gồm các máy chủ ứng dụng AS (Application Server) và các máy chủ thuê bao thường trú HSS (Home Subscriber Server).
- Lớp điều khiển bao gồm nhiều hệ thống con trong đó có hệ thống IMS lõi.
- Lớp vận tải bao gồm thiết bị người dùng UE (User Equipment), các mạng truy nhập kết nối vào mạng lõi IP. Hai thực thể chức năng NASS và RACS định nghĩa bởi TISPAN có thể được xem như thuộc lớp vận tải hay thuộc lớp điều khiển ở trên.
Tại thời điểm hiện tại, kiến trúc cuối
cùng của IMS chưa được thống nhất. Tuy nhiên về cơ bản nó sẽ vẫn dựa
trên các thành phần như miêu tả trong hình 2. Một điểm đáng lưu ý là
kiến trúc IMS là một kiến trúc chức năng, tức là các thực thể được định
nghĩa dựa theo các chức năng của chúng. Điều này có nghĩa là chúng có
thể được thiết kế trên cùng một thiết bị phần cứng.
a) Lớp dịch vụ :
- Máy chủ ứng dụng AS (Application Server) là nơi chứa đựng và vận hành các dịch vụ IMS. AS tương tác với S-CSCF thông qua giao thức SIP để cung cấp dịch vụ đến người dùng. Máy chủ VCC (Voice Call Continuity), đang được phát triển và chuẩn hóa bởi 3GPP, là một ví dụ về máy chủ ứng dụng AS. AS có thể thuộc mạng thường trú hay thuộc một mạng thứ ba nào đó. Nếu AS là một phần của mạng thường trú, nó có thể giao tiếp trực tiếp với HSS thông qua giao thức DIAMETER để cập nhật thông tin về hồ sơ người dùng (user profiles). AS có thể cung cấp các dịch vụ như quản lý sự hiện diện (presence) của người dùng trên mạng, quản lý quá trình hội thảo trực tuyến, tính cước trực tuyến…
- Máy chủ quản lý thuê bao thường trú HSS (Home Subscriber Server) có thể xem như là một cải tiến của bộ đăng ký định vị thường trú HLR (Home Location Register). HSS là một cơ sở dữ liệu lưu trữ thông tin của tất cả khách hàng thuê bao. Nó chứa đựng các thông tin như nhận dạng người dùng, tên của S-CSCF gán cho người dùng, hồ sơ roaming, thông số xác nhận thực cũng như thông tin về dịch vụ thuê bao. Trong trường hợp có nhiều HSS trong cùng một mạng, chức năng định vị người dùng SLF (Subscriber location Function) sẽ được thiết lập nhằm xác định HSS nào đang chứa hồ sơ của người dùng tương ứng.
b)Lớp lõi IMS : Chức năng của lõi IMS là quản lý việc tạo lập phiên liên lạc và dịch vụ đa phương tiện. Các chức năng của nó bao gồm:
CSCF (Call Session Control Function) có
nhiệm vụ thiết lập, theo dõi, hỗ trợ và giải phóng các phiên đa phương
tiện cũng như quản lý những tương tác dịch vụ của người dùng. CSCF được
phân ra 3 loại : Serving-CSCF, Proxy-CSCF và Interogating-CSCF.
- Proxy-CSCF (P-CSCF) là một proxy SIP. Sở dĩ gọi là proxy vì nó có
thể nhận các yêu cầu dịch vụ, xử lý nội bộ hoặc chuyển tiếp yêu cầu đến
các bộ phận khác trong hệ thống IMS. Đây là điểm kết nối đầu tiên giữa
hạ tầng IMS và người dùng IMS/SIP. Một vài hệ thống mạng có thể dùng SBC
(Session Border Controller) để thực hiện chức năng này. Để kết nối với
hệ thống IMS, người dùng trước tiên phải đăng ký với P-CSCF trong mạng
mà nó đang kết nối. Địa chỉ của P-CSCF được truy cập thông qua giao thức
DHCP hoặc sẽ được cung cấp khi người dùng tiến hành thiết lập kết nối
PDP (Packet Data Protocol) trong mạng thông tin di động gói tế bào. Chức
năng của P-CSCF bao gồm:
- P-CSCF nằm trên đường truyền của tất cả các thông điệp báo hiệu trong hệ thống IMS. Nó có khả năng kiểm tra bất kỳ thông điệp nào. P-CSCF có nhiệm vụ đảm bảo chuyển tải các yêu cầu từ UE đến máy chủ SIP (ở đây là S-CSCF) cũng như những thông điệp phản hồi từ máy chủ SIP về UE.
- P-CSCF xác thực người dùng và thiết lập kết nối bảo mật IPSec với thiết bị IMS của người dùng. Nó còn có vai trò ngăn cản các tấn công như spoofing, replay để đảm bảo sự bảo mật và an toàn cho người dùng.
- P-CSCF cũng có thể nén và giải nén các thông điệp SIP để giảm thiểu khối lượng thông tin báo hiệu truyền trên những đường truyền tốc độ thấp.
- P-CSCF có thể tích hợp chức năng quyết định chính sách PDF (Policy Decision Function) nhằm quản lý và đảm bảo QoS cho các dịch vụ đa phương tiện.
- P-CSCF cũng tham gia vào quá trình tính cước dịch vụ. - Serving-CSCF (S-CSCF) là một nút trung tâm của hệ thống báo tín
hiệu IMS. S-CSCF vận hành giống như một máy chủ SIP nhưng nó bao hàm cả
chức năng quản lý phiên dịch vụ. Các chức năng chính của S-CSCF bao gồm:
- Tiến hành các đăng ký SIP nhằm thiết lập mối liên hệ giữa địa chỉ người dùng (địa chỉ IP của thiết bị) với địa chỉ SIP. S-CSCF đóng vai trò như một máy chủ Registar trong hệ thống SIP.
- S-CSCF tham gia trong tất cả các quá trình báo hiệu từ hệ thống IMS về người dùng. Nó có thể kiểm tra bất kỳ thông điệp nào nếu muốn.
- S-CSCF giữ vai trò quyết định chọn lựa AS nào sẽ cung cấp dịch vụ cho người dùng. Nó giữ vai trò định tuyến dịch vụ thông qua việc sử dụng giải pháp DNS/ENUM (Electronic Numbering).
- S-CSCF thực hiện các chính sách của nhà cung cấp dịch vụ. S-CSCF tương tác với máy chủ AS để yêu cầu các hỗ trợ dịch vụ cho khách hàng. S-CSCF liên lạc với HSS để lấy thông tin, cập nhật thông tin về hồ sơ người dùng và tham gia vào quá trình tính cước dịch vụ. - Interrogating-CSCF (I-CSCF) trong hệ thống mạng của một nhà cung cấp
dịch vụ là điểm liên lạc cho tất cả các kết nối hướng đến một UE nằm
trong mạng đó. Địa chỉ IP của I-CSCF được công bố trong máy chủ DNS của
hệ thống. Chức năng của I-CSCF bao gồm:
- Định tuyến thông điệp yêu cầu SIP nhận được từ một mạng khác đến S-CSCF tương ứng. Để làm được điều này, I-CSCF sẽ liên lạc với HSS (thông qua DIAMETER) để cập nhật địa chỉ S-CSCF tương ứng của người dùng. Nếu như chưa có S-CSCF nào được gán cho UE, I-CSCF sẽ tiến hành gán một S-CSCF cho người dùng để nó xử lý yêu cầu SIP.
- Ngược lại, I-CSCF sẽ định tuyến thông điệp yêu cầu SIP hoặc thông điệp trả lời SIP đến một S-CSCF/I-CSCF nằm trong mạng của một nhà cung cấp dịch vụ khác. - BGCF (Breakout Gateway Control Function) là một máy chủ SIP chứa đựng chức năng định tuyến dựa trên số điện thoại. Nó được sử dụng khi một thiết bị IMS thực hiện cuộc gọi đến mạng nối chuyển mạch hay mạng điện thoại cố định truyền thống PSTN. BGCF hỗ trợ khả năng kết nối liên mạng thông qua việc định tuyến yêu cầu SIP trong trường hợp S-CSCF xác định rằng không thể định tuyến yêu cầu này bằng DNS/ENUM. BGCF sẽ xác định nút mạng tiếp theo trên đường định tuyến, hoặc là MGCF hoặc là một BGCF của mạng khác rồi chuyển báo hiệu đến nút mạng tương ứng.
- MGCF ( Media Gateway Control Function) có nhiệm vụ quản lý cổng phương tiện, bao hàm các chức năng như: liên lạc với S-CSCF để quản lý các cuộc gọi trên kênh phương tiện, làm trung gian chuyển đổi (conversion) giữa giao thức báo hiệu ISUP và SIP. MGCF quản lý một hay nhiều IM-MGW (IP Multimedia-Media Gateway). IM-MGW sẽ tương tác với MGCF để quản lý tài nguyên. IM-MGW đóng vai trò là điểm chuyển đổi nội dung đa phương tiện giữa mạng chuyển nối gói và chuyển nối mạch khi thông tin truyền từ mạng này sang mạng khác.
- Chức năng quản lý tài nguyên đa phương tiện (Media Resource Function) có thể phân ra thành 2 thành phần: MRFC (Media Resource Function Controller) và MRFP (Media Resource Function Processor). MRFC có vai trò quản lý tài nguyên cho các dòng dữ liệu đa phương tiện trong MRFP (Media Resource Function Processor), giải mã thông điệp đến từ máy chủ ứng dụng AS truyền qua S-CSCF, điều khiển MRFP tương ứng cũng như tham gia vào quá trình tính cước. MRFP đóng vai trò quan trọng trong việc thích ứng nội dụng dịch vụ, chuyển đổi định dạng (transcoding) nội dung.
c) Lớp vận tải:
Ở đây, chúng ta tạm xem NASS và RACS là 2 thành phần thuộc lớp vận tải. Vài trò của 2 thành phần này được miêu tả dưới đây:
- NASS ( Network Attachment Subsystem): Chức năng chính của NASS bao gồm:
- Cung cấp một cách linh hoạt địa chỉ IP cũng như các thông số cấu hình khác cho UE (sử dụng DHCP)
- Xác nhận thực người dùng trước và trong quá trình cấp phát địa chỉ IP
- Cấp phép cho mạng truy nhập dựa trên hồ sơ mạng
- Quản lý định vị người dùng
- Hỗ trợ quá trình di động và roaming của người dùng. - RACS (Resource & Admission Control Functionality) bao gồm 2 chức năng chính là: chức năng quyết định chính sách dịch vụ (S-PDF) và chức năng điều khiển chấp nhận kết nối và tài nguyên truy nhập (A-RACF).
- S-PDF (Serving Policy Decision Function), dưới yêu cầu của các ứng dụng, sẽ tạo ra các quyết định về chính sách (policy) bằng việc sử dụng các luật chính sách và chuyển những quyết định này tới A-RACF. S-DPF cung cấp một cách nhìn trừu tượng về các chức năng truyền tải với nội dung hay các dịch vụ ứng dụng. Bằng cách sử dụng S-DPF, việc xử lý tài nguyên sẽ trở nên độc lập với việc xử lý dịch vụ.
- A-RACF (Access Resource and admission Control Function) nhận các yêu cầu về tài nguyên QoS từ S-PDF. A-RACF sẽ sử dụng thông tin QoS nhận được từ S-PDF để quyết định chấp nhận hay không chấp nhận kết nối. A-RACF cũng thực hiện chức năng đặt trước tài nguyên và điều khiển các thực thể NAT/Firewall.
- http://vienthongkysu.com/mobile/kientruc-ims/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét