Khám phá sức mạnh những tên lửa đạn đạo khủng khiếp nhất thế giới
(GenK.vn) - Điểm qua sức mạnh của các loại tên lửa đường đạn xuyên lục địa (ICBM) khủng khiếp nhất trong kho vũ khí của các cường quốc hạt nhân.
- Mã kích hoạt tên lửa hạt nhân của Mỹ là 00000000
- Cận cảnh tên lửa Exocet Việt Nam sắp mua
- Những điều hoang đường về tên lửa hành trình
- Những quả tên lửa chỉ có đại gia mới dám dùng
Tên lửa đạn đạo là loại tên lửa có phần lớn quỹ đạo sau khi phóng tuân theo các nguyên tắc của đường đạn học, phần quỹ đạo của tên lửa trong giai đoạn này thực chất là theo chế độ bay không điều khiển theo phương trình vật chuyển động tự do trong trường trọng lực. Để đi được xa thường tên lửa được phóng lên rất cao, quỹ đạo vượt ra khỏi tầng khí quyển đậm đặc của Trái Đất và thâm nhập khoảng không vũ trụ. Điểm đặc trưng của tên lửa đạn đạo là được phóng theo phương thẳng đứng.
20.500 đơn vị vũ khí hạt nhân là con số được nêu ra trong báo cáo của các chuyên gia Viện Nghiên cứu hòa bình quốc tế Stockholm SIPRI. Đó chính là số lượng đầu đạn hạt nhân mà 8 cường quốc Mỹ, Nga, Anh, Pháp, Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan và Israel sở hữu. Trong đó có 5.000 đầu đạn hạt nhân ở trạng thái sẵn sàng cho sử dụng, 2.000 ở trạng thái sẵn sàng chiến đấu.
Dưới đây là các loại tên lửa đường đạn xuyên lục địa (ICBM) khủng khiếp nhất trong kho vũ khí của các cường quốc hạt nhân.
RT-2UTTKh Topol-M (tên mã NATO là SS-27 Sickle B)
Là sản phẩm của Viện Nhiệt học Moscow phát triển từ đầu những năm 1990 và do xưởng chế tạo máy Votkinsk lắp ráp. Ngay từ khi ra mắt, Topol-M được coi là hướng phát triển ICBM mới của Nga với việc áp dụng công nghệ động cơ đẩy tên lửa sử dụng nhiên liệu rắn và được kế thừa nhiều công nghệ đặc thù của ICBM Nga.
Trong thực tế, ICBM Topol-M có kết cấu 3 tầng phóng với phiên bản giếng phóng cố định và trang bị trên xe phóng dã chiến đặc chủng. Tên lửa dài 22,7m, đường kính thân đạt 1,9m và tổng trọng lượng đạt 47,2 tấn (trong đó khối lượng đầu đạn mang theo đạt 1,2 tấn).
Tầm bắn tối đa của Topol-M đạt 10.500km và sai số vòng tròn đồng tâm tới mục tiêu (CEP) khoảng 200m (tầm bắn của ICBM thực tế không cần quá 12.000km vì đây cũng là độ dài của đường kính trái đất, 12.742km).
Topol-M sử dụng hệ thống dẫn đường hỗn hợp vệ tinh, quán tính và đạo hàng hình sao (với tầm bắn lớn, dẫn đường quán tính thường không chính xác do sự bất ổn của từ trường trái đất. Để khắc phục, ICBM sử dụng bản đồ vị trí các ngôi sao để tham chiếu với các hệ dẫn đường khác đưa đầu đạn tới đích với sai số ít nhất).
Ngoài ra, hệ thống vỏ bọc của đầu đạn trang bị trên ICBM Topol-M được thiết kế cực kỳ chắc chắn mà chỉ có vụ nổ hạt nhân mới có thể phá hủy được nó, nên các phương thức gây nhiễu bằng công nghệ EMP hay quang điện đều vô hiệu. Khi tới điểm đã định, đầu đạn sẽ tự kích nổ ở độ cao 500m để phát huy tối đa khả năng hủy diệt.
RS-24 Yars (tên mã NATO là SS-29)
RS-24 Yars được phát triển bởi Viện thiết kế công nghệ nhiệt Moscow, cũng chính là nơi thiết kế tên lửa Topol-M. Tên lửa RS-24 "Yars" được đánh giá có khả năng "chọc thủng mọi lá chắn tên lửa" trong vòng 15-20 năm tới nhờ tốc độ bay nhanh hơn tất cả các loại tên lửa hiện hành, khả năng thay đổi linh hoạt độ cao và hướng bay khiến cho tên lửa đánh chặn của đối phương không thể tiếp cận.
Về cơ bản RS-24 là phiên bản khác của Topol-M đã được tăng trọng lượng, kích thước với tầm bắn xa hơn, khoảng 11.000km. Nó được thiết kế để mang tối đa 6 đầu đạn, các đầu đạn trang bị công nghệ tự dẫn MIRV có thể bắn xuống các mục tiêu khác nhau.
Khác với Topol-M, RS-24 mang phần chiến đấu với nhiều đầu đạn tự tách (MIRV). Ngoài các đầu đạn, Yars còn có thể mang tổ hợp các phương tiện đột phá phòng thủ tên lửa nên gây khó khăn lớn cho đối phương trong việc phát hiện và chặn đánh tên lửa. Cải tiến mới này làm cho RS-24 trở thành tên lửa chiến đấu hiệu lực nhất trong bối cảnh Mỹ triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa toàn cầu. RS-24 thậm chí có thể lắp đặt trên đường sắt.
ICBM này được phóng thử nghiệm lần đầu tiên vào năm 2007 nhằm thay thế R-36M và Topol-M đang được trang bị trong quân đội Nga. RS-24 có hai phiên bản cố định và di động. Trong cuộc bắn thử nghiệm ngày 29/5/2007, RS-24 đã rời khỏi bệ phóng di động ở Sân bay vũ trụ Plesetsk, Tây Bắc nước Nga vào lúc 14h.
Đầu đạn thử nghiệm đã bắn trúng mục tiêu nằm cách đó 5.750km ở bãi thử Kura thuộc bán đảo Kamchatka. Ở một trong những cuộc thử nghiệm cuối cùng của RS-24 được tiến hành cuối năm 2008, tên lửa rời bệ phóng lúc 4h chiều và đã bay xuyên nước Nga trên một quãng đường dài 9.700km trước khi trúng đích.
R-36M2 Voevoda (tên mã NATO là SS-18 Satan)
R-36M2 do Viện thiết kế Yuzhnoie (Dnepropetrovsk) phát triển dựa trên hệ thống R-36 trong thập kỷ 1970, là một trong những tên lửa đạn đạo xuyên lục địa mạnh nhất thế giới. Đây là dòng ICBM sử dụng nhiên liệu lỏng vô địch thế giới về trọng lượng tên lửa khi phóng (nặng tới 211 tấn), khối lượng đầu đạn có thể mang theo (gần 9 tấn) và tầm bắn cực xa (16.000km). Với thông số trên, R-36M2 thực sự là quỷ Sa-tăng với sức huỷ diệt mà nó gây ra.
Về cơ bản, R-36M/M2 là ICBM 2 tầng phóng sử dụng nhiên liệu lỏng kết hợp giữa N2O4 và UDMH. Thiết kế động cơ và buồng chứa nhiên liệu mới cho phép ICBM Sa-tăng mang được 188 tấn nhiên liệu và khối lượng đầu đạn tới 8,8 tấn (R-36 chỉ là 5,5 tấn). Thiết kế mới cũng cho phép tên lửa lưu trữ nhiên liệu lâu hơn với việc duy trì trạng thái chiến đấu 10-15 năm trước khi cần kiểm tra và tuổi thọ có thể đạt 25 năm.
Sức mạnh của đầu nổ đơn khối của R-36M2 gấp 500 lần quả bom hạt nhân Mỹ ném xuống Nhật Bản năm 1945. Với sức mạnh như vậy, ngoài khả năng tiêu diệt mục tiêu khi cho nổ ở độ cao thấp, R-36M2 còn có thể sử dụng như vũ khí điện từ (EMP) khi cho nổ ở độ cao lớn tạo "sát thương" bằng sóng điện từ và bụi hạt nhân trên lãnh thổ đối phương.
ICBM R-36M2 sử dụng phương thức phóng thẳng đứng nguội. Đạn tên lửa được bảo quản trong thùng vận tải – phóng, lắp trong hầm phóng được nạp nhiên liệu ở trạng thái trực chiến thời gian dài. Cơ chế phóng được thực hiện hoàn toàn tự động. Các tham số quan trọng nhất của tên lửa đều được mã hoá và kiểm soát thường xuyên để tăng cường độ tin cậy khi thực hiện nhiệm vụ chiến đấu. Cơ cấu khoang bảo quản mới cho phép R-36M2 hoạt động trong bất kỳ điều kiện thời tiết.
Lực lượng tên lửa chiến lược Nga hiện còn duy trì từ 55 đến 80 bệ phóng R-36M2 và chúng sẽ tiếp tục hoạt động cho tới năm 2026.
Trident II
Trident được phát triển bởi tập đoàn Lockheed Martin và đưa vào sử dụng trong Hải quân Mỹ từ năm 1979 thay thế cho tên lửa UGM-73 Poseidon. Xuất phát từ yêu cầu răn đe hạt nhân hải quân với Liên Xô, ngay từ năm 1956, Mỹ đã bắt tay vào phát triển vũ khí tiến công chiến lược hải quân (FBM) với sự ra mắt của các dòng SLBM Polaris (A1), Polaris (A2), Polaris (A3), Poseidon (C3) và Trident I (C4). Từ yêu cầu đáp ứng chiến lược với SLBM Sineva, hải quân Mỹ từ đầu những năm 1990 đã bắt đầu tái trang bị bằng SLBM thế hệ 6 Trident II D5 hay UGM-133 với nhiều yêu cầu kỹ-chiến thuật tiên tiến.
Trident-II có chiều dài 13,41m, đường kính 1,85m, trọng lượng phóng 58,5 tấn. Đây là tên lửa nhiên liệu rắn 3 giai đoạn với tầm bắn thiết kế 11.000km. Tên lửa có khả năng mang theo 8 đầu đạn hạt nhân W88 với đương lượng nổ 475 Kt/đầu đạn hoặc 12 đầu đạn hạt nhân W76 với đương lượng nổ 100 Kt/đầu đạn.
Thân tên lửa được làm bằng nguyên liệu tổng hợp từ sợi carbon gia cố bằng polymer làm cho trọng lượng tên lửa nhẹ hơn nhiều so với người tiền nhiệm. Chính nhờ ưu điểm trọng lượng nhẹ, độ chính xác cao, uy lực tấn công lớn, tính tin cậy tuyệt đối nên Trident-II đã biến biên đội tàu ngầm hạt nhân chiến lược lớp Ohio Mỹ trở thành nguy hiểm nhất thế giới. Tuy nhiên, hạn chế của D5 là việc vẫn sử dụng ống phóng dạng thẳng đứng nên khi phóng, tàu ngầm vận chuyển phải đứng im ở độ sâu phù hợp (thường là 50m).
Hiện tại, Trident II đang được trang bị trên 14 tàu ngầm nguyên tử lớp Ohio của hải quân Mỹ và 4 tàu ngầm lớp Vanguard của hải quân Anh. Do chưa có kế hoạch thay thế, Mỹ và Anh đang hợp tác kéo dài niên hạn sử dụng D5 tới năm 2042 với chương trình D5LE.
LGM-118А
Còn được biết đến với cái tên Peacekeeper (kẻ giữ hòa bình), LGM-118A là tên lửa đạn đạo xuyên lục địa vẫn được quân đội Mỹ trang bị và bố trí tại các căn cứ chiến lược trước giai đoạn 2003. Ngày 17/6/1983, lần đầu tiên cất cánh tại Căn cứ Không quân Vandenberg, bang California, năm 1983, Peacekeeper đã bay trên quỹ đạo dài 6.704km, phóng ra 6 đầu đạn tấn công các mục tiêu giả định độc lập với nhau tại bãi thử tên lửa Kwajalein, Thái Bình Dương.
Được gọi là tên lửa mạnh nhất trong kho vũ khí của Mỹ, Peacekeeper có một sức mạnh rất đáng gờm và được các chuyên gia vũ khí của thế giới đánh giá là tên lửa đạn đạn chiến lược có độ chính xác mạnh nhất trong số các loại tên lửa đạn đạo.
LGM-118A Peacekeeper được thiết kế bằng các công nghệ mới nhất của Mỹ thời điểm đó, đặc biệt là hệ thống nhiên liệu, điều khiển và hệ thống vận chuyển để có thể hoạt động trong môi trường bị tấn công hạt nhân. Hơn nữa, LGM-118A Peacekeeper được chế tạo để hoạt động đồng bộ với các hệ thống điều khiển vũ khí trên bộ của quân đội Mỹ. Nó có khả năng mang tối đa 11 đầu đạn hạt nhân với Công nghệ tái nhập khí quyển tấn công nhiều mục tiêu độc lập - MIRV. Đây là công nghệ tên lửa liên lục địa cực tiên tiến, hiện chỉ có Nga và Mỹ sở hữu.
R-7
R-7 là tên lửa đạn đạo liên lục địa đầu tiên trên thế giới, được sử dụng ở Liên Xô từ năm 1959 đến 1968 trong thời gian chiến tranh Lạnh. Khi lần đầu tiên ra mắt vào năm 1957, R-7 đã trở thành bước nhảy vọt lớn nhất trong tên lửa của thế giới kể từ khi tên lửa A-4 của Đức được sử dụng. Tuy nhiên thiết kế tên lửa này lại là lỗi thời nếu sử dụng làm vũ khí do chi phí vận hành, kích thước và độ cơ động.
Chỉ có sáu điểm phóng được đưa vào hoạt động, bốn ở Plesetsk và hai ở Baikonur, Kazakhstan. Chi phí là rất lớn bởi khó khăn trong xây dựng các điểm phóng tại các vùng xa xôi. Có thời điểm, mỗi điểm phóng tên lửa tiêu tốn đến 5% chi phí quốc phòng của Liên Xô. Tuy vậy, chi phí nặng nề không phải là hi hữu trong một dự án tên lửa thế hệ đầu và Hoa Kỳ cũng gặp vấn đề tương tự.
R-7 dài 34 m, đường kính 3 m và nặng 280 tấn. Động cơ tên lửa gồm hai lớp đẩy, sử dụng ôxy lỏng và hỗn hợp hydrocacbon và có tầm bắn xa 8.800 km với độ chính xác 5 km; có thể mang một đầu đạn hạt nhân với đương lượng nổ 3 megaton (quả bom nguyên tử mang tên "Little Boy" ném xuống thành phố Hiroshima năm 1945 chỉ có đương lượng nổ 13 đến 16 kiloton). Bốn động cơ gắn với thân chính sẽ cung cấp lực đấy cho tên lửa trong giai đoạn đầu (rời bệ phóng, tăng tốc và lấy độ cao), động cơ trên thân chính cung cấp lực đẩy ở giai đoạn hai (tăng tốc và lấy độ cao). Hệ thống dẫn hướng được điểu chỉnh theo quán tính bằng radio.
Mặc dù không thành công khi sử dụng làm vũ khí nhưng tiến trình thử nghiệm R-7 đã giải quyết rất nhiều các vấn đề khoa học cơ bản cho những cải tiến tương lai trong lĩnh vực vũ khí và vũ trụ. R-7 là nền tảng để phát triển thành nhiều mẫu tên lửa khác nhau. Cũng như loại tên lửa này rất thành công khi sử dụng vào các chương trình không gian vì thiết kế của nó rất thích hợp cho loại hoạt động này. Nó được sử dụng trong hơn nửa thế kỷ cho các chương trình thám hiểm không gian của Nga sau đó cũng như dùng để đưa các vệ tinh lên quỹ đạo.
SLBM R-30Bulava
Trong bộ ba hạt nhân, tên lửa đạn đạo phóng từ tàu ngầm (SLBM) là vũ khí khó bị phát hiện và ngăn chặn nhất. Sức công phá của các SLBM trên một tàu ngầm hạt nhân chiến lược cũng đủ để phá hủy hoàn toàn một quốc gia, SLBM Bulava được coi là một thành phần quan trọng trong khả năng răn đe hạt nhân của Nga.
R-30 là loại tên lửa 3 giai đoạn, chạy bằng nhiên liệu rắn được thiết kế để trang bị cho lớp tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo hạt nhân Borei. Tên lửa Bulava có thể được phóng đi từ dưới nước, kể cả trong lúc tàu ngầm đang chuyển động. Bulava có chiều dài thân 12,1 m (có mang đầu đạn), đường kính thân 2 m và trọng lượng đủ tải đạt 36,8 tấn với tầm bắn tối đa tới 8.300 km. Tuy nhiên, trong các vụ phóng thử, Bulava có thể đạt tầm bắn tới 9.000 km.
Việc phóng tên lửa Bulava có thể được thực hiện ngay khi tàu ngầm đang di chuyển ở độ sâu 50 m. Điều này giúp tàu ngầm có thể chủ động được vị trí phóng và cơ động ngay sau khi phóng. Như đa số các dòng SBLM khác, Bulava được thiết kế mang đa đầu đạn dạng MIRV có thể tự cơ động quỹ đạo ở pha cuối với số lượng mang theo từ 3 đến 8 đầu đạn. Sức công phá của mỗi đầu đạn này dao động trong khoảng 100-150 Kilotone và sai số đường tròn đồng tâm (CEP) ở tầm bắn tối đa khoảng 200-250 m. MIRV trang bị trên SLBM Bulava có sự khác biệt so với SLBM của Mỹ. Các MIRV do Nga thiết kế là các tên lửa hành trình có khả năng tự thay đổi độ cao và quỹ đạo làm lá chắn tên lửa của đối phương mất dấu, còn MIRV của Mỹ được định trước quỹ đạo tấn công mục tiêu dù có thể bị bắn chặn một vài đầu đạn con.
Ngoài ra, SLBM Bulava còn được thiết kế mang một đầu đạn đơn nhất có sức công phá 500 Kilotone (tương tự như thiết kế của Topol-M), để tấn công các mục tiêu kiên cố như boongke hay hầm ngầm đặt sâu dưới lòng đất.
Dự án phát triển tên lửa đạn đạo Bulava là một trong những dự án phát triển vũ khí thuộc loại "đắt đỏ” nhất của Nga và cũng là một trong những dự án gây tranh cãi nhiều nhất do hàng loạt các vụ phóng thử tên lửa gần đây đều gặp sự cố.
Tham khảo: Listverse, Wiki
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét