Thứ Hai, 8 tháng 4, 2013

Vì sao Pháp Luân Đại Pháp là một khoa học của tinh thần và thể xác
Tác giả: Tiến sỹ Alexis Genin

[Chanhkien.org] Tôi là một khoa học gia trẻ tuổi vừa mới tốt nghiệp khoa di truyền người và đặc biệt là về thần kinh học. Luận văn của tôi là về cấu trúc phân tử của việc học và ghi nhớ, và bây giờ tôi đang làm việc như một nhà nghiên cứu về chương trình đỡ đầu-Cộng đồng Kinh tế Châu Âu ở Paris.
Là một khoa học gia trẻ tuổi, tôi rất vinh dự giới thiệu những điều mà tôi đã kinh nghiệm với Pháp Luân Đại Pháp, cố gắng để cho các bạn biết nó tiếp cận khách quan chân lý như thế nào, và vì sao, là một người trẻ tuổi theo chủ nghĩa vô thần và chủ nghĩa hoài nghi vĩnh viễn, tôi đã tìm thấy sự uyên thâm và chân lý trong những bài giảng.
Trước hết, hãy để tôi giới thiệu thân thế của tôi. Tôi được giáo dục trong một gia đình theo chủ nghĩa vô thần, và sớm nhìn nhận rằng con người sáng tạo ra ý tưởng về thần và những quan niệm mê tín khác bởi vì cuộc sống là buồn tẻ và anh ta sợ chết. Cũng giống như nhiều người tôi đã được dẫn dắt vào khoa học với một ý chí mạnh, mẽ muốn hiểu biết mọi thứ như là cơ cấu cuộc sống, thái độ con người và lương tri. Triết học có vẻ hấp dẫn nhưng không cung cấp một nội hàm cụ thể nào về tính khách quan, “hiện thực” là cái mà một cuộc thí nghiệm khoa học có thể mang lại. Với khoa học nó chỉ ra rằng con người có thể đạt được chân lý, tìm thấy những câu trả lời hay ít nhất là manh mối như là từ đâu mà chúng ta sinh ra, tại sao chúng ta tồn tại và chúng ta đang đi về đâu. Tại sao lại là cách này mà không phải như thế kia, vì sao có bệnh tật và đau khổ, yêu, ghét, và sự tàn ác.
Tôi chuyển sang lĩnh vực thần kinh học, và khám phá ra thế giới kỳ thú của bộ não chúng ta – hàng tỷ tế bào hoạt động chủ yếu thông qua mối quan hệ tương tác liền nhau giữa chúng, tạo ra sự hài hòa và hiệu quả thông qua sự hỗn đỗn bề ngoài của các tín hiệu điện chằng chịt và sự bài tiết hóa học trung tâm. Vật chất và ý thức liên kết với nhau trong nơi đặc biệt này, trong hệ thống phức tạp nhất của cở thể chúng ta. Nhưng, quan trọng nhất, trong những năm ở trường Đại học tôi đã học được phương pháp khoa học và những khái niệm của nghiên cứu khách quan.
Khoa học, thầy giáo tôi giảng, không thể giáo điều. Mọi nhà khoa học có nghĩa vụ phê bình và nghi ngờ về mọi mô hình khoa học đơn lẻ. Lịch sử của khoa học là một trong nhưng mô hình mà mọi người đều thừa nhận là một sự miêu tả sự thật được bóc trần đột ngột bởi những khám phá mới. Vì vậy khi những khái niệm mới xuất hiện, thìmở ra một thế giới của những sự khám phá mới. Để minh họa rằng khoa học của chúng ta là được hình thành bằng những định nghĩa không vĩnh cữu, chúng ta phải nhớ lại thời kỳ khi học thuyết lượng tử được giới thiệu trong thế giới vật lý học. Nó là một cơn động đất. Các nhà vật lý tin tưởng những gì họ đã hiểu và đã đưa vào trong những phương trình tất cả mọi quy luật vật lý khi nó biểu hiện đột nhiên rằng, sự thật, họ chỉ biết một phần rất hữu hạn của nó. Một cơn động đất khác hiện đang xảy ra, từ những gì tôi đã đọc, trong lĩnh vực thiên văn học. Những khám phá thiên văn học gần đây nhất có thể làm thay đổi hoàn toàn quan điểm của chúng ta về vũ trụ bởi vì nó cách xa với sự phù hợp của những mô hình hiện tại của chúng ta về sự tiến hóa của vũ trụ.
Tôi đã bị ảnh hưởng sâu sắc bởi khái niệm này của khoa học tuyệt đối, và hiểu rằng những mô hình khoa học nên là những công cụ để đo lường hơn là những sự thật không thể thay đổi. Khi tôi gặp Pháp Luân Đại Pháp, tôi vẫn là một sinh viên Ph. D. Một buổi sáng trong lúc đang đi bộ, tôi nhìn thấy một vài người đang ngồi thiền. Bởi vì nó trông đẹp mắt, tôi nghĩ rằng sẽ là thú vị để thử nó.
Đó là sự bắt đầu của những gì mà người ta có thể gọi là một sự thí nghiệm khoa học. Trong khi luyện tập, tôi có cảm giác khác lạ ở hai lòng bàn tay mà sự hiểu biết về thần kinh học của tôi không thể diễn giải. Rồi xuất hiện một sức nóng nơi vùng bụng. Tôi ngạc nhiên và quết định đây là một lĩnh vự rất thú vị để khám phá. Tiếp tục tham gia những buổi tập luyện, xuất hiện những cảm giác tinh diệu và sự hưng phấntrong cơ thể. Tôi đã hỏi xin một cuốn sách giảng giải về phương pháp tập luyệnvà nhận thấy những cảm giác này đã được giảng giải rõ ràng. Sau đó khi tôi lần đầu tiên đọc cuốn sách Chuyển Pháp Luân, có vẻ như là nó kể chuyện huyền hoặc của thời Trung Quốc cổ. Đầu tiên tôi cảm thấy nó ngồ ngộ nhưng nó cũng tốt, bởi vì nó nhấn mạnh tầm quan trọng của đạo đức và lòng vị tha. Cuối cùng tôi nổi lên suy nghĩ rằng cuốn sách này thực sự có thể được xem như một trang nghiên cứu dựa trên những kết quả đáng chú ý, với một phần “Chất liệu và phương pháp”. Trong ! giới nghiên cứu, khi một kết quả có vẻ kỳ lạ hoặcngoại lệ, điều đầu tiên mà người ta làm là cố gắng tạo ra một bản sao thí nghiệm, để xem nó có hoạt động hay không. Vì vậy tôi đã làm thế.
Sự khác biệt lớn nhất đối với khoa học mà tôi đã quen thuộc đó là không cần dùng đến kính hiển vi, không cần lực phóng xạ, không cần cắt lớp não và không cần kỹ thuật PRC. Thân thể của bản thân tôi là công cụ nghiên cứu và cuốn sách Chuyển Pháp Luân là, giả sử rất đơn giản, một giao thức truyền đổi. Tôi phải nói nó là một giao thức rất phức tạp và tinh vi, và nếu một bước nào đó không hoàn thành tốt, quý vị sẽ không đạt được kết quả mong muốn. Nhưng các nhà khoa học biết rằng, trong nghiên cứu, chúng ta thường thất bại 99 lần trong 100 trước khi chúng ta có những phương án tối ưu.
Nghe có vẻ lạ lùng khi xem những gì trông không khác hơn là một cuốn sách về tinh thần như một giao thức khoa học, và đây không phải là loại kết quả có thể hi vọng được xuất bản. Nhưng khoa học, thầy giáo tôi nói, chỉ là câu hỏi về sự vật khách quan và đã thực nghiệm cẩn thận. Vậy nó là khoa học, là những gì thuộc vật chất hay lĩnh vực nghiên cứu. Tôi bị thu hút vào Pháp Luân Đại Pháp trước tiên bởi những thay đổi kỳ lạ mà tôi cảm thấy nó diễn ra trong cơ thể tôi. Tôi bắt đầu ghi chép những điều này từ lúc bắt đầu, để chắc chắn rằng đấy không phải là một hiện tượng thần kinh hay là hão huyền. Tôi phải nhấn mạnh rằng, cùng với lúc trí óc tôi mở rộng ra đủ để nói “ hãy thử”, tôi đã hoàn toàn hoài nghi và chỉ muốn tiếp tục bước đi trên những nền tảng đã có chắc chắn và hợp lý.
Tôi bị thu hút đặc biệt xem Pháp Luân Đại Pháp như một khoa học, không phải là giáo điều hay duy tâm, bằng một vài kinh nghiệm cụ thể mà tôi sẽ mô tả nhưng là một phần rất nhỏ. Lúc mới bắt đầu, một ngày khi tôi đang tập luyện với đôi mắt khép lại, tôi nhìn thấy một cái đĩa màu đen hiện hữu rất thật ở khoảng giữa hai lông mày. Lúc đó tôi chưa đọc Chuyển Pháp Luân. Sau đó tôi rất ngạc nhiên khi thấy hiện tượng đó được mô tả trong cuốn sách như là sự khai mở “thiên mục”. Trong khoa học, chúng ta gọi đó là cuộc thí nghiệm “mù” trong đó bạn không biết mình đang dự định khảo sát cái gì và thậm chí bạn không biết cái gì đang được khảo sát. Dù sao, nếu bạn quan sát nó, thì sẽ thấy rằng nó không phụ thuộc vào yếu tố chủ quan, và cũng không dựa vào ý chí cá nhân để thấy được điều này. Tự xét lại, tôi đã nghĩ rằng cuốn sách là một câu chuyện hư cấu rất hay, thế nhưng nội dung của nó là những sự thật khách quan, vậy nên tôi phải xem xét lại quan điểm ban đầu của mình.
Đó là những gì mà tôi có thể ghi chép được trong biểu hiện của những hiện tượng bề bặt. Chuyển Pháp Luân giảng rằng tiêu chuẩn Chân-Thiện-Nhẫn là luật của vũ trụ, chỉ đạo cho sự thăng hoa của tinh thần và thể xác, và có tác dụng ước chế những gì chống lại nó. Điều này có vẻ như là thuyết giảng đạo đức, nhưng thật sự nó giảng giải những quy luật vật lý căn bản của vũ trụ chúng ta. Như là hiện tượng mà chúng ta gọi là “lực hấp dẫn”, và ‘lực từ trường”. Có chăng con người hiểu thấu tác dụng ước chế của những điều này không, nếu con người nhảy ra khỏi đỉnh một tòa nhà hoặc ma sát một thanh sắt vào một nam châm, người ta chắc chắn sẽ quan sát được những tác dụng của nó. Và dù sao thì chúng ta không nhìn thấy nó, cũng không hiểu thấu những bản chất thật của nó. Điều này cũng có ý nghĩa tương tự.
Tôi nhớ một bài trên Thiên Nhiên nhật báo. Các bạn biết đây là tờ nhật báo hàng đầu. Tiêu đề là: “Nhiều con đường khai sáng – Vật lý học hiện đại nhận ảnh hưởng của triết học Đông và tây Phương.” Bài báo đó diễn giải rằng những nhà khoa học hiện đại như Einstein và Schrödinger chịu ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng Phật giáo khi họ nghĩ về học thuyết của họ, và vật lý lượng tử chịu nhận một vàiảnh hưởng của Phật giáo. Bài báo kết thúc bằng câu: “Einstein… đã nhấn mạnh cần thiết cho một sự hấp dẫn trong học thuyết về tri thức. Nhu cầu này hoàn toàn to lớn hơn khi cơ bản một sự định hướng lại trong tư duy được đòi hỏi. Trong thí dụ như thế, những giáo huấn của những nền văn minh khác có thế cung cấp một cú huých hữu hiệu cho những phát minh khoa học.” Suy nghĩ từ giác độ này sang giác độ khác, không phải rất đáng suy ngẫm rằng Phật Thích Ca Mâu Ni, người mà chúng ta biết như một vị Phật lịch sử, đã giảng những khái niệm rất gần gũi với quan điểm hiện tại của con người về vũ trụ? Ông đã giới thiệu tư tưởng về vô số các hành tinh có sinh mệnh và sự sống ở trên đó, và những khái niệm của sự vi tế vô cùng và sự rộng lớn vô tận. Không đáng chú ý rằng, trong một thời kỳ xa xưa, một người không hề tham dự một khóa học nào về vũ trụ lại có thể đạt đến tầng trí huệ ấy? Có phải nó có nghĩa rằng con đường dẫn đến trí huệ và tri kiến là nhiều hơn một? Tất nhiên điều này không phải được nói ra để nói về Phật giáo, mà chỉ là một ví dụ. Gần đây tôi cũng đọc được một bài “quan tâm cao” của báo Tự Nhiên về một học thuyết vừa mới nổi lên trong vật lý học và đang có ảnh hưởng lớn trong cộng đồng nghiên cứu, mặc dù tôi không hoàn toàn hiểu về nó. Các nhà vật lý học làm những mô hình của vũ trụ dựa trên những đo đạc mà họ có được về những ngôi sao và mặt trời. Mô hình tốt nhất là mô hình diễn giải được số lượng lớn hơn của những đo lường. Những nhà khoa học này diễn tả diện mạo bề ngoài của vũ trụ chúng ta, nghĩa là 0, sO1? lỏng lẻo biểu hiện trên toàn thể của của những mối quan hệ trọng lực với những lực khác, với một luận điểm đơn điệu và rất đơn giản: Sự hiện hữu của những không gian khác, thời-không khác của sự tồn tại vật chất, thời- không tồn tại cùng một điểm tại cùng một thời gian của chúng ta, trong đó mất trọng lượng có thể xảy ra. Mặc dù những gì mô hình này mở ra có giá trị quyết định hay không. Ít nhất, mọi người trong lĩnh vực này xem nó là một công trình hoàn hảo. Không phải nó là khoa học? Tuy thế, với phương pháp tư tưởng của chúng ta và tầm nhìn về một không gian ba chiều, chúng ta không thể đo lường nó được. Điều đólà, chúng ta cần thay đổi tư tưởng của chúng ta, thay đổi những khái niệm nếu chúng ta muốn bắt kịp với tiến trình của khoa học.
Không phải là không có lý do gì mà tôi đọc bài báo này. Khi tôi nhìn thấy tiêu đề, tôi đã giật mình bởi sự giống nhau với những gì được viết trong Chuyển Pháp Luân bàn về thời gian và không gian khác. Gần đây hơn, tôi cũng có một hấp dẫn khác. Sư Phụ Lý Hồng Chí giảng rằng nguyên gốc của vũ trụ là vật chất và vật chất là bất diệt. Thậm chí chân không, thứ mà người ta vẫn nói là không có vật chất, vẫn là vật chất. Vài năm trứơc đây Ngài giảng: “Khoa học sẽ biết đến điều này trong tương lai”. Gần đây, có một bài báo nghiên cứu bàn về đặc tính của chân không. Bài nghiên cứu chỉ ra là trạng thái chân không vẫn là một trạng thái tồn tại của vật chất: những sóng âm có thể đo được trong nó và gây ra một ảnh hưởng mạnh đến vật chất bên ngoài. Đó cũng nói, khi “vật chất” không hiện hữu, có thể có một loại “siêu vật chất” vẫn tồn tại trong cái gọi là không gian rỗng ấy.
Bây giờ tôi hiểu rằng Chân Thiện Nhẫn cũng là một luật, một quy luật tinh thần, đạo đức và vật lý tồn tại trong hết thảy mọi thứ. Tại sao? ở đây nó nghe có vẻ như là niềm tín ngưỡng, hay là học thuyết, nhưng có thể bạn sẽ xem nó như một lực lượng vật chất. Sư Phụ Lý Hồng Chí giảng một ví dụ về tác dụng của Chân Thiện Nhẫn: “Lấy một ví dụ, một chiếc chai đựng đầy thứ dơ bẩn, nó được xiết nút thật chặt; ném nó xuống nước, thì nó chìm ngay đến đáy. Chư vị đổ những thứ bẩn đi, càng đổ nhiều ra thì nó lại càng có thể nổi lên cao hơn; [nếu] đổ hết [thứ bẩn] ra ngoài, [thì] nó nổi hẳn lên trên. Trong quá trình tu luyện chúng ta cần gạt bỏ những thứ không tốt tồn tại nơi thân người của mình, [thì] mới có thể thăng hoa lên trên được; đặc tính của vũ trụ chính là có” tác dụng ấy. ” (“Chuyển Pháp Luân”, Bài giảng thứ nhất, Luyện công vì sao không tăng công)
Cách nào để kiểm tra luận điểm này? Người ta có thể phải đồng hóa với đặc tính này, và so sánh với một vài trạng thái tiêu chuẩn – trước khi cố gắng để được đồng hóa hay những khi không muốn tuân theo cách đối lập. Trong lĩnh vực này đó là một khoảng cách quá xa không thể tưởng tượng và là một lĩnh vực chưa được nghiên cứu, khoa học hiện tại của chúng ta chưa có một lý thuyết nào đi đến nó, có thể bởi vì chúng ta ở cùng thời kỳ với sự khai mở của trường này. Như những nhà koa học dẫn đường trong lịch sử, chúng ta trước hết nên quan sát toàn diện, cố gắng có một bức tranh đầy đủ, và sau đó đi đến kết luận cuối cùng, làm cho nó phù hợp với những lý thuyết hiện tại nếu có thể, nếu không thì sẽ tạo ra một học thuyết mới.
Trong quan điểm của tôi, tri kiến của Chân-Thiện-Nhẫn như một thực tại khách quan sẽ mở ra những trường mới của học vấn cũng như văn hóa mới. Vả lại, yêu cầu cơ bản nhất cho điều này là chúng ta có thể đến để xem điều này mà không cần định kiến. Tiến trình khoa học này không phải là tiến trình mà có thể tiến hành như những tiến trình của chúng ta hiện tại, bởi vì đây là một tiến trình khác nó mở ra một con đường khác. Có thể nó trông giống hơn với khoa học Trung Quốc cổ đại. Khoa học Trung Quốc cổ xem tất cả các vật chất đều có các yếu tố Kim Mộc Thủy Hỏa và Thổ. Quý vị nghe có thể lạ, đặc biệt là từ “Mộc”. Có phải thân thể người của chúng ta được cấu thành từ “gỗ”? Tất nhiên là không, Vả lại những gì mà họ diễn giải có một ý nghĩa khác, và đúng hơn là diễn giải những đặc tính bên trong của sự vật. Nó có nghĩa là, khoa học này dựa trên nghiên cứu bên trong trước, trong khi của chúng ta là phải nghiên cứu bên ngoài trước.
Ngày hôm này tôi rất hân hạnh được chia sẻ với các bạn cảm tưởng của tôi rằng Pháp Luân Đại Phápthực sự là một khoa học, một khoa học uyên bác và rộng lớn, và tôi có thể nói với các bạn rằng sự thực nghiệm tự nhiên thống nhất và khách quan đã mang tôi đến quyết định này. Tuy thế tôi không có một thống kê, biểu bảng và số liệu nào để minh họa điều này. Tôi chỉ có thể nói kết luận này có thể được kiểm chứng bởi những người theo sát “giao thức” như thế, với một trí óc hòa bình để kiên định khám phá lĩnh vực rộng lớn này. Một vài nhà diễn thuyết ngày nay có thể có những sự hiểu biết sâu sắc hơn về điều này, bởi vì họ có thành tựu lớn hơn trong khoa học. Như tôi đã nói, tôi chỉ là một nhà khoa học trẻ và rất sẵn lòng chia sẻ một vài quan điểm với các bạn.
Cám ơn.
Tham khảo:
1- Chuyển Pháp Luân, Nhà xuất bản Universe Publishing House, New York.
2- Goonatilake, S. Nature vol 405,  trang 399 (tháng 5, 2000) Many paths to enlightenment –modern physics bear the imprint of western and asian philosophy.
3- Nature, tháng 12 năm 2001.
4- Science and Avenir (tiếng Pháp) tháng 12 năm 2001.
http://chanhkien.org/2004/01/vi-sao-phap-luan-dai-phap-la-mot-khoa-hoc-cua-tinh-than-va-the-xac.html
Nghiên cứu phương Tây về luân hồi: Nghiệp lực đời trước và bệnh tật đời này

Tác giả: Tử Quân
[Chanhkien.org] Y học hiện đại đã phát triển tới mức các loại thuốc và phương pháp trị bệnh mới liên tục xuất hiện. Tuy nhiên, con người vẫn ốm, và bệnh tật ngày càng trở nên dị thường. Sau khi ốm, người ta đi khám bác sĩ, được kê đơn, uống thuốc hay tiêm thuốc, và thậm chí là phẫu thuật. Y học hiện đại tin rằng với mỗi loại bệnh thì có những biện pháp tương ứng để chữa trị. Để ủng hộ học thuyết này, thuốc kháng sinh đã được phát minh để chống lại các căn bệnh gây ra bởi vi khuẩn và virus. Tuy nhiên, bất cứ khi nào vi khuẩn hay căn bệnh trở nên nhờn thuốc, người ta lại phải nghiên cứu ra các cách chữa trị mới. Với những căn bệnh kỳ lạ và khó chữa thì không có phương pháp nào đáng tin cậy để điều trị. Các bệnh nhân chịu đựng những căn bệnh dường như vô phương cứu chữa này phải chuyển sang những phương thức trị liệu khác, chẳng hạn như Trung Y, châm cứu hoặc khí công. Những phương thức này có thể làm giảm các triệu chứng. Tại sao y học hiện đại không thể chữa, mà những phương thức cổ truyền lại có thể? Cuối cùng, đâu là nguyên nhân gốc rễ của bệnh tật?
Trong giới tu luyện, người ta tin rằng “nghiệp” được tích tụ từ những kiếp trước và khiến người ta bị bệnh. Cũng có nghĩa rằng, con người không chỉ có một đời, mà là nhiều đời, và “tội lỗi” gây ra được tích lại qua thời gian. Càng phạm nhiều tội thì căn bệnh càng khó chữa. Nghiệp lực từ các kiếp sống trước có tác dụng nhân quả dẫn đến bệnh tật trong đời này. Đối với hầu hết con người ngày nay, điều này như rất kỳ lạ và khó tin. Tuy nhiên trên thực tế, ngày nay có những người thực sự vận dụng nguyên lý này để trị bệnh. Nhiều nhà khoa học thủ cựu đã tiến hành rất nhiều nghiên cứu và xác nhận quan điểm này. “Liệu pháp tiền kiếp” chỉ là một ví dụ điển hình.
Ở phương Tây, “liệu pháp tiền kiếp” đang ngày càng nhận được sự chú ý của cộng đồng khoa học. Cuốn sáchMany Mansions được viết bởi Giáo sư Gina Cerminara đã ghi lại phương pháp điều trị được Edgar Cayce tiến hành sau khi “soi kiếp” cho bệnh nhân.
Edgar Cayce là một nhà thôi miên và tiên tri người Mỹ có “công năng đặc dị”, người có thể chẩn đoán và điều trị bệnh nhân từ cách xa nhiều dặm. Trong số các bệnh nhân được Edgar Cayce điều trị, một trường hợp có thể lấy làm ví dụ như sau:
Có một cậu bé 11 tuổi mà từ năm lên hai đã mắc bệnh đái dầm. Khi cậu lên ba, cha mẹ cậu tìm một nhà tâm lý học tới để chữa trị. Sau một năm, việc điều trị vẫn không có kết quả. Cha mẹ cậu đã dành rất nhiều thời gian và công sức để tìm một phương pháp chữa trị. Tuy nhiên đến năm 11 tuổi, cậu bé vẫn không thể ngừng đái dầm.
Lúc cậu bé 11 tuổi, cha mẹ cậu đã nhờ Edgar Cayce chữa cho cậu. Sau khi “soi” được tiền kiếp của cậu bé, Cayce khám phá ra rằng vào thế kỷ 17, câu bé đã từng là một Giám mục người Anh. Cậu thích dùng cực hình với các tù nhân khi xét xử họ. Tù nhân bị trói vào một chiếc bảng và từ từ nhấn xuống nước lạnh.
Phát hiện này đã cho thấy tội lỗi của cậu trong tiền kiếp, và tạo nên một dấu ấn trên thận của cậu trong kiếp này để trả nghiệp mà cậu đã gây ra.
Sau khi Edgar Cayce tìm được căn nguyên, cậu bé đã có hy vọng được cứu chữa. Khi cậu bé ngủ vào ban đêm, cha mẹ cậu đã ngồi bên giường cậu và đọc cho cậu nghe: “Con là một người lương thiện và tốt bụng. Con muốn mọi người được hạnh phúc. Con sẽ giúp đỡ bất cứ ai mà con gặp…” Kết quả là đêm đầu tiên sau 9 năm, cậu bé đã ngưng đái dầm. Cha mẹ cậu tiếp tục điều này trong vòng vài tháng, và sau đó cậu đã hoàn toàn khỏi bệnh. Kể từ khi cậu bé trở thành một người hoàn toàn khác, ai cũng yêu mến cậu. Cậu rất sốt sắng vì công việc chung và khoan dung với người khác.
Chúng ta thấy rằng điều xấu gây ra trong quá khứ không hề mất đi sau khi chúng ta chết. Gieo gì thì gặt nấy. Nghiêp lực đời trước sẽ gây ra đau khổ trong đời này. Người Trung Quốc có câu “thiện ác hữu báo” được truyền lại qua nhiều thế hệ, cũng chính là giải thích về quy luật nhân quả trong cuộc sống.

Dịch từ:
http://www.zhengjian.org/zj/articles/2002/11/13/19213.html
http://www.pureinsight.org/node/1279
http://chanhkien.org/2011/04/nghien-cuu-phuong-tay-ve-luan-hoi-nghiep-luc-doi-truoc-va-benh-tat-doi-nay.html
Nghiên cứu phương Tây về luân hồi: An bài và ước nguyện trước khi đầu thai

Tác giả: Thanh Địch
[Chanhkien.org] Đại thi hào Lý Bạch viết rằng, “Những người sống là những khách đi qua, còn những người chết là những sinh mệnh đang trở về. Một hành trình qua lại giữa trời và đất, khóc thương cho con đường vĩnh hằng.”Đời người ngắn ngủi và cay đắng như bóng con ngựa chạy qua khe cửa. Đó cũng đã đủ để làm cho con người ta thấy buồn phiền. Tuy nhiên, đối với một số người, cuộc đời đầy những thất vọng và đau khổ. Tại sao trên đời mọi thứ đều như thế này?
Trong 20-30 năm qua, nhiều công trình nghiên cứu sâu về sự luân hồi và đầu thai đã được thực hiện trong lĩnh vực Tây y. Kỹ thuật chủ yếu được dùng là hướng dẫn chủ thể bước vào trạng thái thôi miên, một trạng thái tương tự như tĩnh đạt được trong khi thiền định của Phật gia. Điều này làm cho chủ thể nhớ lại và trải qua lại những đời trước của mình và thậm chí những thế giới bên kia giữa các lần đầu thai. Những nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng cuộc đời của một con người thực sự là đã được an bài trước bởi những sinh mệnh cao cấp và rằng, trong một số trường hợp, người đó thậm chí đồng ý sống cuộc đời đó trước khi hóa thân.
Ví dụ, Tiến sĩ Michael Newton đã nghiên cứu những sự kiện xảy ra trong thế giới linh hồn giữa các lần đầu thai bằng phương pháp thôi miên. Ông đã mô tả nhiều trường hợp trong hai quyển sách của mình — Hành trình của những linh hồn [1] và Số phận của những linh hồn [2]. Ông đã tìm ra rằng nếu cái chết của một người trong đời tiếp theo được an bài là do bị bệnh chết non, bị giết, hoặc bị tai nạn, người đó thường được nói trước khi chuyển sinh [sang đời đó]. Những bi kịch trên thế giới này thực ra không phải là ngẫu nhiên mà thực ra là do tiền định. Mục đích của những an bài này là để người đó trả những nợ nần mà mình đã gây ra trong những đời trước, để trong khó khăn mà tôi luyện linh hồn của họ, hoặc để cho những người khác một cơ hội để trong đau khổ mà đi lên.
Trong một trường hợp, một chủ thể nhớ lại rằng cô ta đã chết trong một trại tập trung của Phát xít Đức trong đời trước. Hóa ra là người này và ba người nữa đã tình nguyện đầu thai trở thành những phụ nữ Do Thái. Năm 1941, không dính dáng gì với nhau, họ bị bắt ở Munich và bị đưa đến một trại tập trung ở Dachau và bị giam trong cùng những trại lính. Tất cả những sự kiện này đã được an bài trước. Cô gái chết năm 1943 trong đời đó khi mới 18 tuổi. Những điều mà cô cần làm trong trại tập trung đó là chăm sóc những đứa trẻ, và cố giúp chúng sống. Cô đã thực hiện nhiệm vụ đã được an bài của mình một cách dũng cảm.
Trong một trường hợp khác, chủ thể là một người phụ nữ trong đời trước đã chết trong một trang trại ở Texas 2 năm sau khi kết hôn. Trước khi đầu thai, cô được cho chọn ba cách mà cô sẽ chết. Cô có thể bị trúng một viên đạn lạc của hai kẻ say rượu đang bắn nhau, bị ngã ngựa hoặc chết đuối. Người phụ nữ này chọn cách bị bắn chết bởi một viên đạn của hai tên say rượu. Cách cô chọn để từ rã cõi đời 2 năm sau khi cưới là để chồng cô phải chịu nỗi đau của việc bị mất người mà anh ta yêu sâu sắc và trả nợ của mình từ những đời trước, và để học vài bài học. Số phận của người phụ nữ này hoàn toàn là để chồng cô trả nghiệp và nâng cao tầng của mình.
Bằng cách nhắc lại những trường hợp này, tôi không có ý định nói rằng không cần phải thông cảm cho nỗi thống khổ của người khác mà ngược lại. Tất cả mọi người trên thế giới này phải có trách nhiệm cố gắng nhất để chống lại tà ác và khuyến thiện và bênh vực công lý và bảo vệ những người vô tội. Nếu thờ ơ từ chối giúp đỡ người khác trong khi họ gặp khó khăn và cười trên những đau khổ của người khác và khơi thêm vết thương của người ta chính là tội ác. Họ sẽ chắc chắn phải trả giá cho những điều mình làm trong đời sau.
Trong những tầng không gian ở trên thế giới của loài người, những người tu luyện cũng thấy rằng tất cả mọi việc đều có mối quan hệ nhân quả chứ không phải là ngẫu nhiên. Cũng chính vì vậy mà một người khi đã tu luyện đến một tầng nào đó có thể nhìn thấy những an bài này và cả tương lai. Điều này được gọi là khả năng biết được tương lai và quá khứ (công năng túc mệnh thông).
Sách tham khảo:
[1] Michael Newton, Tiến sĩ, Hành trình của những linh hồn: Nghiên cứu những trường hợp về cuộc sống giữa các đời người, (Journey of Souls: Case Studies of Life Between Lives), Nhà xuất bản Llewellyn Publications, 1994.
[2] Michael Newton, Tiến sĩ, “Số phận của những linh hồn: Nghiên cứu những trường hợp mớI về cuộc sống giữa các đời người (Destiny of Souls: New Case Studies of Life Between Lives), Nhà xuất bản Llewellyn Publications, 2000.

Dịch từ:
http://www.zhengjian.org/zj/articles/2002/12/20/19699.html
http://pureinsight.org/node/1358
http://chanhkien.org/2010/10/nghien-cuu-cua-phuong-tay-ve-luan-hoi-an-bai-va-uoc-nguyen-truoc-khi-dau-thai.html
Nghiên cứu phương Tây về luân hồi: Một số người bị trừng phạt trong đời này vì đã đàn áp những người Cơ Đốc giáo vào thời kỳ La Mã cổ đại

Tác giả: Tử Quân
[Chanhkien.org]Thật bất hạnh khi bị tàn tật hoặc bệnh nan y. Khi thấy những người khác khỏe mạnh và đầy sức sống, những người này chỉ có thể cam chịu đau khổ do bệnh tật gây ra. Mọi người thường kêu Trời vì những bất công mà họ dường như phải chịu đựng. Họ hỏi: “Tại sao tôi lại phải chịu bất hạnh như thế này?”Về những “bất công” này, những người tu luyện tin rằng đó là kết quả của những điều ác mà họ đã làm trong những đời trước. Nói cách khác, mọi người sống qua nhiều đời và nghiệp lực của họ là một thứ vật chất tạo ra do làm điều xấu có liên quan đến những khổ nạn và bệnh tật trong đời này. Ở phương Tây, nhiều bác sĩ và học giả đã có thể tìm thấy những đời trước của bệnh nhân và nhờ đó xác định được nguyên nhân thật sự của những đau khổ và bệnh tật của họ trong đời này.
Trong quyển sách của mình với tiêu đề “Những ngôi nhà: Chuyện kể của Edgar Cayce về sự luân hồi”, bác sĩ Gina Cerminara đã liệt kê những ví dụ về việc điều trị những bệnh nhân bằng cách đọc những đời trước của họ do Cayce (sinh năm 1877 – mất năm 1945), là một người có khả năng siêu thường nổi tiếng người Mỹ thực hiện. Edgar Cayce có khả năng “đọc” về bệnh nhân ở cách xa hàng ngàn dặm sau khi ông bước vào trạng thái nửa thức nửa ngủ.
Trong số những trường hợp mà Edgar Cayce “đọc”, có một số người được lần ngược trở về thời Đế quốc La Mã cổ đại. Một số bệnh nhân trong số những trường hợp này đã tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào việc đàn áp những người theo đạo Cơ Đốc.
Một trong số đó là một phụ nữ 45 tuổi. Bà bị tàn phế vì bệnh bại liệt ở tuổi 36 và phải dùng xe lăn để đi lại. Sau khi thử nhiều cách điều trị không thành công, bà gặp Cayce và đề nghị ông đọc về những đời trước của mình. Bà được biết rằng nguyên nhân của việc bị tàn phế của mình trong đời này là do những việc bà đã làm từ thời La Mã cổ đại. Vào giữa những năm 37 và 68 sau Công nguyên, bà là một thành viên của triều đình khi Hoàng đế Nero đàn áp Cơ Đốc giáo. Bà không chỉ không thông cảm với những người theo đạo Cơ Đốc bị cắt xẻo thịt trong đại hý trường mà còn nhạo báng họ. Cái giá bà đã phải trả cho việc nhạo báng lạnh lùng của mình là bị tàn phế trong đời này.
Một bệnh nhân khác là một cô gái. Cô là một quý tộc trong đời trước vào thời kỳ cai trị của Nero và cô đã thích thú khi xem những người theo đạo Cơ Đốc bị tra tấn trong đại hý trường. Cô thậm chí còn cười lớn khi nhìn thấy một thân thể cô bé bị sư tử xé tan. Người quý tộc vui với những đau khổ của những người đã phải chết vì không chịu từ bỏ tín ngưỡng của mình này đang phải trả giá cho những tội ác của mình bằng căn bệnh lao.
Một trường hợp khác là một nhà sản xuất phim bị bại liệt từ năm 17 tuổi. Ông phải đi khập khiễng. Trong khi đọc những đời trước của ông, Cayce thấy rằng người này cũng đã tham gia vào việc đàn áp Cơ Đốc giáo. Ông ta là một người lính vào thời kỳ đó và được lệnh phải đàn áp những người Cơ Đốc giáo khi những người này không đánh trả lại anh ta. Tội của ông không phải là do việc tuân lệnh với tư cách là một người lính, mà là do chế nhạo những người kiên định vào tín ngưỡng của mình. Việc ông ta bị tàn phế trong đời này là để cảnh tỉnh ông.
Bệnh nhân cuối cùng là một cậu bé. Lưng của cậu bị thương trong một tai nạn ô tô ở tuổi 16 và cậu bị mất hết cảm giác từ dưới đốt sống thứ 5 trở xuống. Cậu ta không thể tự di chuyển và phải dùng xe lăn. Bảy năm rưỡi sau, khi cậu 23 tuổi, mẹ của cậu đề nghị Cayce đọc [về những đời trước] cho cậu, và 2 đời trước của cậu đã được đọc. Một đời cho thấy cậu là một người lính của đế quốc La Mã cổ đại trong thời kỳ đầu của cuộc đàn áp Cơ đốc giáo. Cậu ta đã rất kiêu ngạo và vui sướng với những đau khổ của những người Cơ Đốc giáo. Cậu ta cũng đã trực tiếp tham gia vào cuộc đàn áp. Và do đó cậu ta đã phải chịu đựng đau khổ trong đời này.
Việc đọc đời trước của những người này chỉ ra nguyên nhân thực sự của những nỗi đau khổ của họ — họ đã từng cười nhạo và bức hại những người kiên định vào tín ngưỡng của mình. Đồng thời, việc đọc cho thấy rằng đằng sau những yếu tố gây bệnh trên bề mặt, một thế lực vô hình tồn tại ở một không gian sâu hơn mà ta không biết đến đang điều khiển vận mệnh của con người. Nó cũng giống như một câu tục ngữ cổ của người Trung Quốc, “thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo”. Đó không chỉ là một câu nói. Măc dù những bệnh nhân trong 2 trường hợp đầu đã không trực tiếp tham gia bức hại nhưng họ đã không ủng hộ chính nghĩa, nên họ phải trả giá bằng sự đau khổ của mình cho những ngu dốt và lạnh lùng của mình trong những đời trước. Còn đối với những người đã trực tiếp tham gia vào việc đàn áp, như trong thí dụ của bệnh nhân thứ tư, họ đã phải chịu đựng đau khổ từ khi còn rất trẻ. Nghiệp báo không bao giờ chệch dù chỉ là một sợi tóc.
Dịch từ: