Thứ Sáu, 28 tháng 8, 2015

Văn hóa truyền thống: Gia Cát Lượng dùng đức thu phục nhân tâm


Vào cuối thời Đông Hán, đất Trung Hoa bị chia ra làm 3 nước: Ngụy, Thục và Ngô. Vua nước Thục là Lưu Bị trước lúc băng hà đã để lại di chúc căn dặn Thừa tướng Gia Cát Lượng phải đánh chiếm miền Bắc và phục hưng nước Hán.
Gia Cát Lượng tự là Khổng Minh (181–234), hiệu là Ngọa Long tiên sinh, là nhà chính trị – quân sự kiệt xuất của Trung Hoa trong thời Tam Quốc. (Ảnh: internet)
Vào lúc ấy, thống lĩnh của quân miền Nam là Mạnh Hoạch đem đại binh xâm lấn nước Thục. Gia Cát Lượng lập tức cầm quân đi đánh giặc.
Khi quân đội tiến vào lãnh thổ phía Nam và giao chiến với đạo quân của Mạnh Hoạch, Gia Cát Lượng dùng mưu giả thua bỏ chạy. Mạnh Hoạch dẫn quân đuổi theo, kết quả rơi vào mai phục của Gia Cát Lượng. Quân miền Nam bại trận bỏ chạy tứ tán, Mạnh Hoạch bị bắt sống.
Mạnh Hoạch bị áp giải đến đại bản doanh của Gia Cát Lượng. Ông ta nghĩ thầm: “Lần này ta chết chắc rồi”. Nhưng ngạc nhiên thay, Gia Cát Lượng lệnh cho lính cởi trói và ân cần khuyên bảo ông đầu hàng. Mạnh Hoạch không chịu, nói: “Thắng bại là chuyện thường của binh gia. Ta đã không cẩn thận trúng kế của ngươi, như thế làm sao tâm phục được?”.
Gia Cát Lượng không ép buộc ông ta. Thay vào đó lại cùng với Mạnh Hoạch cưỡi ngựa vòng quanh các trại lính của mình. Ông hỏi Mạnh Hoạch: “Ông xem quân đội của ta thế nào?”. Mạnh Hoạch kiêu ngạo trả lời: “Trước kia ta không biết rõ các ngươi, cho nên thất bại. Hôm nay ngươi để cho ta nhìn thấy trận thế của các ngươi, ta xem bất quá cũng chỉ là như thế thôi. Trận thế như vậy, muốn đánh doanh trại các ngươi cũng không khó gì”. Gia Cát Lượng cười sang sảng nói: “Vậy hãy mau mau trở về và chuẩn bị cho tốt, lần sau chúng ta sẽ đánh lại vậy”.
Sau khi được thả, Mạnh Hoạch chuẩn bị quân đội và lần nữa đánh nhau với quân Thục. Nhưng ông ta là người hữu dũng vô mưu, làm sao sánh nổi với Gia Cát Lượng. Một lần nữa ông ta lại bị bắt. Tuy vậy, Mạnh Hoạch vẫn không chịu đầu hàng. Gia Cát Lượng lại thả ông ta ra.
Quan binh nước Thục đều không hiểu gì cả. Sao lại có thể thả kẻ thù ra dễ dàng như vậy được? Gia Cát Lượng tự đã có chủ ý: “Nếu muốn biên giới phía Nam nước Thục được thái bình dài lâu, thì lấy Đức thu phục mới có thể thật sự làm cho người ta tâm phục. Nếu dùng vũ lực mà áp chế thì tương lai lại dễ sinh chuyện”. Quan lại thảy đều khâm phục tầm nhìn của ông.
Khi Mạnh Hoạch trở về, người em trai là Mạnh Ưu hiến kế cho anh. Lúc nửa đêm, Mạnh Ưu cầm một đạo quân đến doanh trại quân Hán và giả vờ đầu hàng. Mặc dù biết rõ ý đồ của ông ta từ đầu, Gia Cát Lượng vẫn thưởng cho binh lính của ông ta rất nhiều rượu ngon. Kết quả là, quân của Mạnh Ưu đều uống say bí tỉ cả. Lúc đó, Mạnh Hoạch theo kế hoạch cầm quân tới đánh nhưng không ngờ lại tự chui vào lưới, lại bị bắt. Nhưng ông ta nhất định vẫn không chịu phục. Gia Cát Lượng lần thứ 3 thả hổ về rừng.
Trở về đại bản doanh, Mạnh Hoạch lập tức chỉnh đốn quân đội, chờ thời cơ phát binh. Một ngày đột nhiên có thám tử về báo: “Gia Cát Lượng đang một mình đi quan sát trận tiền”. Mạnh Hoạch rất mừng rỡ lập tức dẫn người đi bắt Gia Cát Lượng. Không ngờ lần này lại trúng kế và bị bắt lần thứ tư. Biết Mạnh Hoạch vẫn chưa chịu tâm phục, Gia Cát Lượng lại thả ông ta ra.
Một viên đại tướng dưới trướng Mạnh Hoạch là Dương Phong, vốn đi theo Mạnh Hoạch, trải qua mấy lần bị bắt mấy lần được thả, trong lòng mười phần khâm phục tài trí và lòng độ lượng của Gia Cát Khổng Minh. Để trả ơn, ông ta và vợ mình chuốc rượu Mạnh Hoạch cho say và bắt trói dẫn đến doanh trại quân Hán. Mạnh Hoạch bị bắt lần thứ 5 nhưng vẫn không chịu phục và bảo rằng đó là vì ông ta bị tiểu nhân phản bội. Gia Cát Lượng thế là lại thả ông ta ra lần thứ 5, bảo ông ta lại chuẩn bị đánh nữa.
Lần ấy trở về, Mạnh Hoạch không dám tự ý, bèn nhập quân với Mộc Lộc đại vương. Doanh trại của tướng Mộc Lộc cực kỳ biệt lập. Gia Cát Lượng cầm quân, vượt nhiều khó khăn mới đến được đó. Tuy nhiên, quân miền Nam dùng dã thú để tham chiến. Kết quả là quân Hán bại trận. Trở về doanh trại, Gia Cát Lượng tạo ra những con thú giả to lớn hơn đám thú thật kia nhiều lần. Khi tái chiến với quân của tướng Mộc Lộc, bầy thú thật sợ hãi khi trông thấy những con thú giả, không dám tham chiến nữa. Lần ấy, quân Hán thắng trận và Mạnh Hoạch lại bị bắt. Mặc dù Mạnh Hoạch vẫn không chịu phục, nhưng lần này không có gì để biện hộ nữa. Gia Cát Lượng vẫn thả ông ta về.
Mạnh Hoạch vừa được thả ra, đã lại nhập bọn với nước Ô Qua. Vua nước Ô Qua là Ngột Đột Cốt có một quân đội hùng mạnh thiện chiến. Đội quân này được trang bị bộ giáp nhẹ mà đao thương bất nhập, gọi là “Đằng giáp quân”. Gia Cát Lượng sớm đã có chuẩn bị rồi, vì thế lần này dùng hỏa công đánh bại Đằng giáp quân của nước Ô Qua. Mạnh Hoạch bị bắt lần thứ 7, quỳ trước trướng Gia Cát Lượng. Gia Cát Lượng lệnh cởi trói cho ông ta và  thiết đãi ông ta cùng thuộc hạ.
Mạnh Hoạch đang ăn uống cùng huynh đệ và thê tử thì một người vào báo với ông ta: “Thừa tướng xấu hổ, không dám gặp Ngài. Thừa tướng đặc biệt lệnh cho tôi thả Ngài trở về chiêu mộ nhân mã để quyết phân thắng bại. Bây giờ Ngài có thể trở về”.
Mạnh Hoạch rơi nước mắt mà nói: “Chưa từng thấy ai bị bắt 7 lần đều được thả cả 7 lần. Dù là người nước nhỏ, nhưng tôi cũng biết chút ít lễ nghĩa. Làm sao tôi có thể vô liêm sỉ như thế được?”. Vì vậy lệnh cho thuộc hạ thảy cùng quỳ dưới trướng, nói lời tạ lỗi: “Thừa tướng có uy của Trời. Chúng tôi sẽ không trở lại nữa!”. Gia Cát Lượng mời Mạnh Hoạch dự đại yến tiệc. Ông trả tất cả những vùng đất chinh phạt được cho Mạnh Hoạch. Mạnh Hoạch và các thuộc tướng đều rất biết ơn và vui vẻ đi về. Mạnh Hoạch trở về còn thuyết phục các bộ lạc khác toàn bộ cùng đầu hàng hết.
Nếu muốn đất nước được thái bình dài lâu, thì lấy đức thu phục mới có thể thật sự làm cho người dân tâm phục. Nếu dùng vũ lực mà áp chế nhân dân thì tương lai rất dễ sinh chuyện.
Chúng tướng hỏi Gia Cát Lượng: “Giờ đây ta đã chinh phạt được miền Nam. Ta có nên gửi quan binh đến đó để cai trị không?”.
Gia Cát Lượng nói: “Nếu ta phái quan lại tới thì cũng phải để lại binh sĩ. Đó không chỉ là lãng phí nhân lực, quân lương, mà trọng yếu là dễ khiến lòng người không tin tưởng lẫn nhau. Chúng ta để các bộ lạc tự mình quản lý, người Hán và các bộ lạc đều bình an vô sự, chẳng phải là rất tốt sao?”. Mọi người đều cho rằng đúng.
Gia Cát Lượng khao quân xong, chuẩn bị trở về nước Thục. Mạnh Hoạch dẫn toàn bộ thuộc tướng và thủ lĩnh các bộ tộc đi hộ tống ông suốt chặng đường về Vĩnh Xương. Gia Cát Lượng dặn dò Mạnh Hoạch cần phải chăm lo cho dân chúng, chớ để lỡ mất vụ mùa, nói xong liền rời đi, nhóm người của Mạnh Hoạch khóc mà bái biệt. Suốt đường về, Gia Cát Lượng đem hạt giống và nông cụ tặng cho nông dân. Người dân miền Nam hết sức biết ơn ông. Họ xây đền thờ, bốn mùa thờ cúng, tôn kính ông như người cha nhân từ. Họ cũng cung cấp thuốc men, canh ngưu chiến mã, cùng các đồ quân dụng cho ông.
Giai-ma-7-cach-chon-nguoi-cua-Gia-Cat-Luong-3
Nhiều năm sau, Gia Cát Lượng qua đời. Vua nước Tấn là Tấn Vũ Đế (tên thật là Tư Mã Viêm) thống nhất tam quốc, đem chủ nước Thục là Lưu Thiện đến thành Lạc Dương. Mạnh Hoạch vẫn cảm ân đức của Gia Cát Lượng, cho nên mỗi năm vào ngày lập hạ đều dẫn thân binh hộ vệ đến trước thành Lạc Dương để trông coi Lưu Thiện. Mạnh Hoạch cũng khẩn cầu Đế vương đối đãi tốt với Lưu Thiện và người dân nước Thục, khiến Tấn Vũ Đế hết sức cảm động.
Gia Cát Lượng bằng trí tuệ và đức nhẫn nại phi thường đối với Mạnh Hoạch 7 lần bắt 7 lần thả, cuối cùng khiến cho ông ta tâm phục khẩu phục. Bởi vậy có thể thấy được, từ cổ chí kim các bậc Đại Trí đều lấy Đức mà thu phục người khác. Người ta phải là người nhân từ trước khi làm nên chuyện lớn. Đó cũng là nguyên tắc chung cho những người quan viên, trước tiên phải kiến lập uy đức; trị quốc an dân thì phải có chính tâm chính khí, phụng sự việc công không một chút tư tâm, như vậy mới có thể khiến nhân tâm quy phục, thiên hạ thái bình. Kẻ dùng bạo lực nhất thời có thể trấn áp người ta, nhưng không thể tồn tại lâu dài, khiến thế nhân cuối cùng sinh tâm oán giận, nhất định sẽ bị lịch sử đào thải.
Kẻ dùng bạo lực nhất thời có thể trấn áp người ta, nhưng không thể tồn tại lâu dài, khiến thế nhân cuối cùng sinh tâm oán giận, nhất định sẽ bị lịch sử đào thải.

Theo minghui.org

Nghiên cứu về luân hồi: Bị trừng phạt trong đời này vì đã từng đàn áp tín đồ Cơ Đốc giáo


Thật bất hạnh khi bị tàn tật hoặc bệnh nan y. Khi thấy những người khác khỏe mạnh và đầy sức sống, những người này chỉ có thể cam chịu đau khổ do bệnh tật gây ra. Mọi người thường kêu Trời vì những bất công mà họ dường như phải chịu đựng. Họ hỏi: “Tại sao tôi lại phải chịu bất hạnh như thế này?”

Về những “bất công” này, những người tu luyện tin rằng đó là kết quả của những điều ác mà họ đã làm trong những đời trước. Nói cách khác, mọi người sống qua nhiều đời và nghiệp lực của họ là một thứ vật chất tạo ra do làm điều xấu có liên quan đến những khổ nạn và bệnh tật trong đời này. Ở phương Tây, nhiều bác sĩ và học giả đã có thể tìm thấy những đời trước của bệnh nhân và nhờ đó xác định được nguyên nhân thật sự của những đau khổ và bệnh tật của họ trong đời này.
Trong quyển sách của mình với tiêu đề “Những ngôi nhà: Chuyện kể của Edgar Cayce về sự luân hồi”, bác sĩ Gina Cerminara đã liệt kê những ví dụ về việc điều trị những bệnh nhân bằng cách đọc những đời trước của họ do Cayce (sinh năm 1877 – mất năm 1945), là một người có khả năng siêu thường nổi tiếng người Mỹ thực hiện. Edgar Cayce có khả năng “đọc” về bệnh nhân ở cách xa hàng ngàn dặm sau khi ông bước vào trạng thái nửa thức nửa ngủ.
Trong số những trường hợp mà Edgar Cayce “đọc”, có một số người được lần ngược trở về thời Đế quốc La Mã cổ đại. Một số bệnh nhân trong số những trường hợp này đã tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào việc đàn áp những người theo đạo Cơ Đốc.
Một trong số đó là một phụ nữ 45 tuổi. Bà bị tàn phế vì bệnh bại liệt ở tuổi 36 và phải dùng xe lăn để đi lại. Sau khi thử nhiều cách điều trị không thành công, bà gặp Cayce và đề nghị ông đọc về những đời trước của mình. Bà được biết rằng nguyên nhân của việc bị tàn phế của mình trong đời này là do những việc bà đã làm từ thời La Mã cổ đại. Vào giữa những năm 37 và 68 sau Công nguyên, bà là một thành viên của triều đình khi Hoàng đế Nero đàn áp Cơ Đốc giáo. Bà không chỉ không thông cảm với những người theo đạo Cơ Đốc bị cắt xẻo thịt trong đại hý trường mà còn nhạo báng họ. Cái giá bà đã phải trả cho việc nhạo báng lạnh lùng của mình là bị tàn phế trong đời này.
Một bệnh nhân khác là một cô gái. Cô là một quý tộc trong đời trước vào thời kỳ cai trị của Nero và cô đã thích thú khi xem những người theo đạo Cơ Đốc bị tra tấn trong đại hý trường. Cô thậm chí còn cười lớn khi nhìn thấy một thân thể cô bé bị sư tử xé tan. Người quý tộc vui với những đau khổ của những người đã phải chết vì không chịu từ bỏ tín ngưỡng của mình này đang phải trả giá cho những tội ác của mình bằng căn bệnh lao.
Một trường hợp khác là một nhà sản xuất phim bị bại liệt từ năm 17 tuổi. Ông phải đi khập khiễng. Trong khi đọc những đời trước của ông, Cayce thấy rằng người này cũng đã tham gia vào việc đàn áp Cơ Đốc giáo. Ông ta là một người lính vào thời kỳ đó và được lệnh phải đàn áp những người Cơ Đốc giáo khi những người này không đánh trả lại anh ta. Tội của ông không phải là do việc tuân lệnh với tư cách là một người lính, mà là do chế nhạo những người kiên định vào tín ngưỡng của mình. Việc ông ta bị tàn phế trong đời này là để cảnh tỉnh ông.
Bệnh nhân cuối cùng là một cậu bé. Lưng của cậu bị thương trong một tai nạn ô tô ở tuổi 16 và cậu bị mất hết cảm giác từ dưới đốt sống thứ 5 trở xuống. Cậu ta không thể tự di chuyển và phải dùng xe lăn. Bảy năm rưỡi sau, khi cậu 23 tuổi, mẹ của cậu đề nghị Cayce đọc [về những đời trước] cho cậu, và 2 đời trước của cậu đã được đọc. Một đời cho thấy cậu là một người lính của đế quốc La Mã cổ đại trong thời kỳ đầu của cuộc đàn áp Cơ đốc giáo. Cậu ta đã rất kiêu ngạo và vui sướng với những đau khổ của những người Cơ Đốc giáo. Cậu ta cũng đã trực tiếp tham gia vào cuộc đàn áp. Và do đó cậu ta đã phải chịu đựng đau khổ trong đời này.
Việc đọc đời trước của những người này chỉ ra nguyên nhân thực sự của những nỗi đau khổ của họ — họ đã từng cười nhạo và bức hại những người kiên định vào tín ngưỡng của mình. Đồng thời, việc đọc cho thấy rằng đằng sau những yếu tố gây bệnh trên bề mặt, một thế lực vô hình tồn tại ở một không gian sâu hơn mà ta không biết đến đang điều khiển vận mệnh của con người. Nó cũng giống như một câu tục ngữ cổ của người Trung Quốc, “thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo”. Đó không chỉ là một câu nói. Măc dù những bệnh nhân trong 2 trường hợp đầu đã không trực tiếp tham gia bức hại nhưng họ đã không ủng hộ chính nghĩa, nên họ phải trả giá bằng sự đau khổ của mình cho những ngu dốt và lạnh lùng của mình trong những đời trước. Còn đối với những người đã trực tiếp tham gia vào việc đàn áp, như trong thí dụ của bệnh nhân thứ tư, họ đã phải chịu đựng đau khổ từ khi còn rất trẻ. Nghiệp báo không bao giờ chệch dù chỉ là một sợi tóc. / Theo Chanhkien.org 

Truyện ngắn: Gieo nhân nào gặp quả nấy





Một hôm một người đàn ông trông thấy một bà lão với chiếc xe bị xẹp lốp đậu bên đường. Tuy trời đã sẩm tối anh vẫn có thể thấy bà đang cần giúp đỡ. Vì thế anh lái xe tấp vào lề đậu phía trước chiếc xe Mercedes của bà rồi bước xuống.

yêu thương, nhân qủa, giúp đỡ,

Chiếc xe Pontiac cũ kĩ của anh vẫn nổ máy khi anh tiến đến trước mặt bà. Dù anh tươi cười nhưng bà lão vẫn tỏ vẻ lo ngại. Trước đó khoảng một tiếng đồng hồ không một ai dừng xe lại để giúp bà. Nhìn bề ngoài của người đàn ông này, bà cụ lo lắng liệu anh có thể hãm hại bà không?
Người đàn ông đã có thể nhận ra nỗi sợ hãi của bà lão đang đứng bên ngoài chiếc xe giữa trời lạnh. Anh hiểu cảm giác lo sợ của bà như thế nào. Cái run đó, nỗi lo sợ trong lòng đó mới là lý do tự nó thành hình trong ta.
Anh nói: “Tôi đến đây là để giúp bà thôi. Bà nên vào trong xe ngồi chờ cho ấm áp? Luôn tiện, tôi tự giới thiệu tôi tên là Bryan Anderson”.
Thật ra thì xe của bà chỉ có mỗi vấn đề là một bánh bị xẹp thôi nhưng đối với một bà già thì nó cũng đủ gây phiền não rồi. Bryan bò xuống phía dưới gầm xe, tìm một chỗ để con đội vào và lại bị trầy da chỗ khuỷ tay cũng như lòng bàn tay một hai lần gì đó. Chẳng bao lâu anh đã thay được bánh xe nhưng anh bị dơ bẩn và hai bàn tay bị đau rát.
Trong khi anh đang siết chặt ốc bánh xe, bà cụ xuống và bắt đầu nói chuyện với anh. Bà cho anh biết bà từ St. Louis đến và chỉ mới đi được một đoạn đường. Bà không thể cảm ơn đầy đủ về việc anh đến giúp đỡ cho bà.
Bryan chỉ mỉm cười trong lúc anh đóng nắp thùng xe của bà lại. Bà cụ hỏi bà phải trả cho anh bao nhiêu tiền. Bryan chưa hề nghĩ đến là sẽ được trả tiền, đây không phải là nghề của anh. Anh chỉ giúp người đang cần được giúp đỡ vì Chúa, Phật hay chính bản thân anh cũng biết rằng đã có rất nhiều người trong quá khứ ra tay giúp anh. Anh đã sống cả đời mình như thế đó và chưa bao giờ anh nghĩ sẽ làm chuyện ngược lại.
Anh nói với bà cụ nếu bà thật sự muốn trả ơn cho anh thì lần khác khi bà biết ai cần được giúp đỡ thì bà có thể cho người ấy sự giúp đỡ của bà, và Bryan nói thêm: “Và hãy nghĩ đến tôi…”
Anh chờ cho bà cụ nổ máy và lái xe đi thì anh mới bắt đầu lên xe của mình đi về. Hôm ấy là một ngày ảm đạm và lạnh lẽo nhưng anh lại cảm thấy thoải mái khi lái xe về nhà.
Chạy được vài dặm trên con lộ, bà cụ trông thấy một tiệm ăn nhỏ. Bà ghé lại, tìm cái gì để ăn và để đỡ lạnh phần nào, trước khi bà đi đoạn đường chót về nhà. Đó là một nhà hàng ăn trông có vẻ không được thanh lịch. Bên ngoài là hai bơm xăng cũ kỹ. Cảnh vật rất xa lạ với bà. Chị hầu bàn bước qua chỗ bà ngồi, mang theo một khăn sạch để bà lau tóc ướt.
Chị mỉm cười vui vẻ với bà dù phải đứng suốt ngày để tiếp khách. Bà cụ để ý thấy chị hầu bàn này đang mang thai khoảng tám tháng gì đó nhưng dưới cái nhìn của bà, bà thấy chị không bao giờ lộ sự căng thẳng hay đau nhức mà làm chị thay đổi thái độ.
Rồi tự nhiên bà lại chợt nhớ đến anh chàng tên Bryan hồi nãy. Bà cụ vẫn còn thắc mắc, không hiểu tại sao một người nghèo đến độ thiếu thốn mà lại sẵn lòng giúp đỡ một người lạ như bà mà không đòi hỏi sự trả ơn chi hết?
Sau khi bà ăn xong, bà trả bằng tờ giấy bạc một trăm đô-la. Chị hầu bàn mau mắn đi lấy tiền để trả lại tờ bạc thừa của bà cụ nhưng bà cụ đã cố ý nhanh chân bước ra khỏi cửa rồi. Lúc chị hầu bàn quay trở lại thì bà cụ đã đi mất. Chị hầu bàn thắc mắc không biết bà cụ kia có thể đi đâu. Khi để ý trên bàn chị thấy có dòng chữ viết lên chiếc khăn giấy lau miệng…
Nước mắt vòng quanh khi chị đọc dòng chữ mà bà cụ viết: “Cô sẽ không nợ tôi gì cả. Tôi cũng đã ở vào tình cảnh thiếu thốn giống như cô. Có ai đó đã một lần giúp tôi giống như bây giờ tôi đang giúp cô. Nếu cô thực sự nghĩ rằng muốn trả ơn lại cho tôi thì đây là điều cô nên làm: Đừng để cho chuỗi tình thương này kết thúc ở nơi cô”.
Bên dưới tấm khăn giấy lau miệng bà cụ còn lót tặng thêm bốn tờ giấy bạc 100 USD.
Tối hôm đó, khi đi làm về và leo lên giường nằm, chị vẫn còn nghĩ về số tiền và những gì bà cụ đã viết cho. Làm thế nào mà bà cụ đã biết chị và chồng của chị hiện đang cần số tiền ấy?
Với sự sanh nở đứa bé vào tháng tới, điều ấy sẽ là khó khăn… Chị biết chồng chị lo lắng đến mức nào và trong lúc anh ta nằm ngủ cạnh chị, chị cho anh một cái hôn nhẹ và thì thào bên tai anh: “Mọi chuyện sẽ tốt đẹp cả. Em thương anh, Bryan, ạ!”
Người xưa dạy: “Gieo nhân nào gặp quả nấy”, hãy làm điều tốt thì sẽ gặp được chuyện tốt, dù bạn không trông thấy họ nhưng họ luôn luôn có mặt ở đâu đó!
Theo happynewyear

Cách mặt đất 644Km có một đại dương rất rộng lớn?




Sau nhiều thập kỷ tiên đoán và nghiên cứu lý thuyết, các nhà khoa học vừa công bố là họ đã tìm ra những dấu hiệu cho thấy có tồn tại một đại dương rộng lớn ở lớp mantle của ruột trái đất.

đại dương lòng đất, trái đất rỗng, nghiên cứu, chuyện lạ,
Họ nói là đại dương trong lòng đất này chứa lượng nước gấp 3 lần lượng nước của tất cả đại dương trên mặt đất. Phát hiện này đồng thời cũng làm vững chắc hơn giả thuyết là nước trên mặt đất (bao gồm biển, đại dương, sông hồ) là nước bị ép từ lòng đất ra, chứ không phải đến từ ngoài hành tinh hoặc do các thiên thạch băng va vào trái đất.
Nghiên cứu này do các nhà khoa học Mỹ và Canada thực hiện bằng cách phân tích số liệu cung cấp bởi USArray, đây là một hệ thống hàng trăm máy phân tích địa chấn đặt khắp nước Mỹ, các máy này có nhiệm vụ “lắng nghe” các hoạt động địa chấn của những lớp ruột Trái đất, cũng như lõi Trái đất.
đại dương lòng đất, trái đất rỗng, nghiên cứu, chuyện lạ,
Một nghiên cứu đăng ở tạp chí Nature nói rằng, các nhà khoa học tìm thấy một lượng kim cương nhỏ, và từ kim cương này, họ kết luận là có tồn tại một siêu đại dương nằm sâu trong lòng đất, cách mặt đất khoảng 600Km.
Giáo sư Graham Pearson, đại học University of Alberta, Canada, phát biểu: “Nghiên cứu cho thấy khả năng tồn tại một siêu trữ lượng nước sâu trong lòng đất là rất cao, dữ liệu chỉ ra là lượng nước này có thể bằng tổng lượng nước của tất cả đại dương trên mặt đất
đại dương lòng đất, trái đất rỗng, nghiên cứu, chuyện lạ,
Cụ thể thì lớp nước này nằm ở phần chuyển tiếp giữa lớp mantle trên và lớp mantle dưới, tức là cách mặt đất khoảng 400 đến 660Km. Nhưng những kết quả này vẫn là do các nhà khoa học kết luận dựa trên dữ liệu thu thập, chứ chưa có bằng chứng cụ thể, vì hiện tại ta vẫn chưa đào sâu được như vậy vào lòng đất.
Phát hiện này mở ra nhiều khả năng cũng như giả thuyết, là liệu Trái đất có rỗng ruột hay không, hoặc thậm chí có khả năng có một thế giới nào đó tồn tại sâu trong lòng đất hay không? ​
đại dương lòng đất, trái đất rỗng, nghiên cứu, chuyện lạ,
Giả thuyết về Trái Đất rỗng: Truyền thuyết cổ cũng như văn học hiện đại đều cho là, sâu trong lòng đất có tồn tại những nền văn minh tiên tiến
Theo tinhte