Thứ Hai, 16 tháng 6, 2014

Vai trò của Liên Xô trong phòng thủ biên giới Việt - Trung

Vai trò của cố vấn Liên Xô trong phòng thủ biên giới Việt – Trung

Vào ngày thứ ba cuộc chiến biên giới Việt – Trung (1979), một đoàn cố vấn quân sự cao cấp của Liên Xô do Đại tướng Obaturov dẫn đầu đã đến Hà Nội.
Sau khi tìm hiểu tình hình và nghiên cứu chiến trường, họ kết luận lực lượng Việt Nam thiếu sự điều phối và không đủ sức ngăn cản bước tiến của quân Trung Quốc. Họ đề nghị các nhà lãnh đạo Việt Nam cấp tốc điều các sư đoàn chủ lực từ Cambodia về, đồng thời họ cũng yêu cầu Matxcơva viện trợ quân sự khẩn cấp cho Việt Nam. Ngoài ra, 29 sư đoàn quân Liên Xô với sự hỗ trợ của không quân đã di chuyển đến biên giới Xô – Trung thuộc khu vực Mãn Châu nhằm kìm chân Trung Quốc từ phía Nam.
Trên biển Đông, 30 tàu chiến Liên Xô tiến vào, đề phòng hành động của hạm đội Nam Hải. Tuy vậy, trên thực tế, không quân và hải quân đều không được Việt Nam và Trung Quốc sử dụng trong cuộc chiến này. Bộ Tổng tham mưu Trung Quốc không đồng ý sử dụng không quân trong khi nhiều chỉ huy chiến trường yêu cầu chi viện. Có lẽ, do yếu tố Liên Xô, Trung Quốc phải hạn chế cả về không gian, thời gian và quy mô cuộc tấn công.
Các cố vấn Liên Xô ra mặt trận, lên tuyến đầu biên giới nơi chiến sự đang diễn ra ác liệt. Mặc dù họ rơi vào trận pháo kích mạnh của quân Trung Quốc, may mắn không ai bị thương nhưng sáu cố vấn Liên Xô đã hy sinh tại Đà Nẵng trong một tai nạn máy bay vào đầu tháng Ba năm đó.
Hiển nhiên, sự có mặt của Đoàn cố vấn quân sự Liên Xô là một hành động thực thi Hiệp định hữu nghị và hợp tác giữa Việt Nam và Liên Xô vừa ký kết trước đó – ngày 3.11.1978.
Đây là một trong những thỏa thuận quan trọng nhất của Hiệp định:
“Trong trường hợp một trong hai bên bị tiến công, hoặc bị đe dọa tiến công thì hai bên ký hiệp ước sẽ lập tức trao đổi ý kiến với nhau nhằm loại trừ mối đe dọa đó, và áp dụng những biện pháp thích đáng có hiệu lực để bảo đảm hòa bình và an ninh của hai nước”.
Không có gì khó khăn để chúng ta nhận thấy, thỏa thuận nêu trên chính là một sự “bảo đảm” của Liên Xô cho Việt Nam mà trực tiếp là đề phòng, ngăn chặn và đánh bại một cuộc tấn công bất ngờ từ Trung Quốc đối với Việt Nam. Rõ ràng, không thể có chuyện ngược lại, vì chắc chắn Việt Nam không thể “áp dụng những biện pháp thích đáng” nhằm loại trừ mối đe dọa đối với Liên Xô nếu điều đó xẩy ra.
Sau khi Trung Quốc hoàn tất việc rút quân, các cố vấn quân sự Liên Xô vẫn còn ở lại giúp Việt Nam lập kế hoạch phòng thủ biên giới phía Bắc, huấn luyện quân sự và nhiều lĩnh vực khác. Theo Hiệp định hữu nghị và hợp tác, Liên Xô đã viện trợ cho Việt Nam nhiều trang bị kỹ thuật hiện đại, góp phần bảo vệ đất nước.
Đại tướng Obaturov, Trưởng đoàn cố vấn quân sự đầu tiên của Liên Xô tại Việt Nam là người giỏi toàn diện cả về chiến lược, chiến dịch, chiến thuật và kỹ thuật quân sự. Ông ta có thể tự mình lái xe tăng và hiểu rõ tính năng các loại súng. Sau này, ông là Giám đốc Học viện quân sự Phrunde rồi sang Cuba làm Trưởng đoàn cố vấn quân sự Liên Xô.
Thông thường, các cố vấn bao giờ cũng độc đoán, áp đặt, chỉ muốn người ta nghe mình. Cố vấn Trung Quốc, cố vấn Liên Xô tại Việt Nam hay cố vấn Việt Nam tại Cambodia đều mang đặc điểm đó. Sự khác nhau là ở vấn đề mức độ.
Về chiến lược phòng thủ của Việt Nam, tướng Obaturov đề nghị là “phòng ngự tích cực”, bố trí lực lượng thành hai tuyến, mỗi tuyến có ba dải phòng ngự cấp sư đoàn, tiền duyên phòng ngự cách biên giới khoảng mười một cây số, ngoài tầm pháo của Trung Quốc từ bên kia biên giới bắn sang.
Có lẽ các cố vấn quân sự Liên Xô không quên bài học năm 1941 – thời điểm Đức tấn công Liên Xô. Bấy giờ, nhiều khu vực phòng thủ của quân đội Liên Xô nằm khá gần biên giới, được chính Xtalin phê chuẩn. Song, Zhukov, lúc này là Tổng tham mưu trưởng cho rằng, những tuyến phòng thủ này do chiều sâu không lớn lắm, không thể cầm cự lâu dài vì pháo binh Đức có thể bắn vào khắp trận địa Liên Xô. Vì thế, cần phải xây dựng trận địa phòng thủ lùi sâu hơn nữa. Tiếc rằng, quan điểm đúng đắn của Zhukov đã không được coi trọng đúng mức. Lịch sử đã ghi nhận, chỉ mấy ngày đầu chiến tranh, Liên Xô đã mất hơn 1.200 máy bay.
Trở lại vấn đề phòng thủ biên giới Việt – Trung. Các tướng lĩnh Việt Nam vừa mới ra khỏi mấy cuộc chiến tranh, dày dạn kinh nghiệm, luôn kết hợp giữa lý thuyết và thực tiễn, giữa kỹ thuật hiện đại và truyền thống chiến tranh nhân dân. Họ muốn bố trí quân đội, tuy vẫn phân chia tuyến một, tuyến hai nhưng tổ chức phòng thủ các sư đoàn ở các vùng trọng điểm, chủ yếu ngăn chặn Trung Quốc trên các trục đường chính từ bên kia biên giới sang. Xen kẽ giữa các khu vực phòng thủ của các sư đoàn chủ lực là lực lượng địa phương, dân quân du kích bảo vệ cạnh sườn, đề phòng Trung Quốc đánh vu hồi các khu vực phòng thủ sư đoàn. Phía trước tiền duyên phòng ngự tùy theo địa hình, tổ chức thành các “dải tác chiến phía trước” bằng lực lượng địa phương, dân quân du kích, chốt giữ các cao điểm khống chế và chủ động đánh ngăn chặn, phục kích, tập kích, tiêu hao đối phương trước khi chúng vào tiền duyên phòng ngự. Nói chung, Việt Nam bố trí lực lượng mạnh giữ vững các khu vực trọng yếu nhưng vẫn để lực lượng dự bị lớn để phản công.
Cho nên, đôi khi giữa các cố vấn Liên Xô và các tướng lĩnh Việt Nam xẩy ra tranh cãi gay gắt. Chẳng hạn, việc bố trí 12 sư đoàn ở dải một biên giới, các cố vấn Liên Xô nhiều lần đề nghị mỗi sư đoàn có một tiểu đoàn xe tăng hoặc pháo tự hành, một tiểu đoàn ô tô vận tải. Nhưng Tổng tham mưu trưởng Lê Trọng Tấn không đồng ý, ông phân tích nhiều về lợi hại và sau đó kiên quyết đề nghị để số xe tăng, ô tô đó làm lực lượng dự bị. Tướng Obaturov nói một cách giận dữ: “Nếu các đồng chí không đồng ý bố trí các tiểu đoàn xe tăng và các tiểu đoàn ô tô cho các sư đoàn dải một biên giới thì tôi không có lý do gì đề nghị Bộ Tổng tham mưu Liên Xô viện trợ thêm xe tăng và ô tô cho các đồng chí…”. Thế là, để có thể nhận được viện trợ về xe tăng và ô tô của Liên Xô, Lê Trọng Tấn đành đồng ý với Obaturov nhưng với chủ ý là sẽ bố trí cho 12 sư đoàn đó một thời gian, sau đó rút dần về làm lực lượng dự bị. Tất nhiên, một số tướng lĩnh Việt Nam cho rằng như vậy là Việt Nam chịu sự áp đặt của cố vấn Liên Xô. Bố trí xe tăng và pháo lên tiền duyên phòng ngự như thế, nếu Trung Quốc tấn công thì “bị nướng hết”!
Các cố vấn Liên Xô đã giúp quân đội Việt Nam nhiều lĩnh vực như lập kế hoạch viện trợ, tổ chức xây dựng lực lượng, đảm bảo hậu cần, huấn luyện quân sự… Đặc biệt, từ năm 1979 đến năm 1985, đã tổ chức hàng chục cuộc tập trận cấp quân đoàn và quân khu, các cuộc diễn tập cho các lực lượng toàn miền Bắc. Qua các cuộc tập trận do các cố vấn Liên Xô chỉ đạo, trình độ tham mưu, chỉ huy của các tướng lĩnh Việt Nam cũng được nâng cao. Tuy vậy, cũng có ý kiến là “học tập giáo điều, đánh theo cách đánh của Liên Xô” là không thích hợp với Việt Nam. Có người nói, “tôi tập thế này nhưng tôi không đánh thế này”?!
Về vấn đề này, nhớ lại năm 1971, Võ Nguyên Giáp thăm Liên Xô, đề nghị Liên Xô có sự giúp đỡ đặc biệt để chống lại người Mỹ.
Thủ tướng Liên Xô Kosygin:
- Tôi xin hỏi đồng chí Giáp. Đồng chí nói Việt Nam đánh thắng Mỹ. Tôi muốn biết các đồng chí có bao nhiêu sư đoàn bộ binh cơ giới và Mỹ có bao nhiêu? Xe tăng, pháo hạng nặng, máy bay chiến đấu…, các đồng chí có bao nhiêu và Mỹ có bao nhiêu? Khả năng về phòng không, về tên lửa, về thông tin, rađa của các đồng chí như thế nào? Xin đồng chí nói qua cho tôi biết.
Đúng là ngôn ngữ câu hỏi của phái “dân sự” và trả lời của tướng Giáp càng nổi bật điều đó.
- Tôi hiểu câu hỏi của đồng chí. Đồng chí muốn biết về vấn đề so sánh lực lượng giữa chúng tôi với Mỹ. Theo học thuyết quân sự Xô-viết là như vậy. Học thuyết quân sự Xô-viết là hết sức ưu việt, đã chiến thắng phát xít Đức. Điều đó rất rõ ràng. Nhưng tôi xin nói nếu chúng tôi đánh theo cách đánh của các đồng chí thì chúng tôi không đứng nổi được hai tiếng đồng hồ. Chúng tôi đánh theo cách đánh khác, cách đánh của Việt Nam, và chúng tôi sẽ thắng”.
Từ năm 1987, Đoàn cố vấn Liên Xô rút dần về nước. Tiếp sau đó là những năm tháng đầy khó khăn đối với nhân dân Liên Xô và sự kiện bất ngờ nhất thế kỷ XX đã xẩy ra: Liên Xô sụp đổ. Hiệp ước Hữu nghị và hợp tác giữa Việt Nam và Liên Xô hết hạn năm 2003 và không được gia hạn. Liên Xô đã biến mất. Các liên minh dựa trên ý thức hệ cũng không thể tồn tại trong thế giới ngày nay. Nước Nga không phải là Liên Xô và liệu Việt Nam có thể trông chờ gì từ nước Nga, câu hỏi còn bỏ ngỏ.
S.T

Liên Xô đã làm gì trong cuộc chiến tranh biên giới Việt - Trung 1979?

Với những cái đầu nóng, thực hiện giải pháp nửa vời và không quyết liệt là không thể, mà còn thúc đẩy quốc gia mang tư tưởng nước lớn muốn 'dạy một bài học' cho nước khác tiến hành cuộc chiến tranh ác liệt hơn. Moskva đã quyết định hành động rất cứng rắn và quyết liệt ngay từ ban đầu.
Vào năm 1979, Liên Xô đã khẳng định kiên quyết với những thế lực đầy tham vọng: Quân đội và nhân dân Xô Viết sẵn sàng sử dụng các giải pháp cuối cùng để thực hiện nghĩa vụ quốc tế của mình với Việt Nam.
Trong rất nhiều trường hợp khác nhau, các nước phải tiến hành nhưng hoạt động quân sự nhằm giải quyết những vấn đề xung đột chính trị mà các biện pháp ngoại giao thông thường không thể giải quyết vấn đề. Nhưng trong lịch sử đấu tranh, có rất nhiều những tình huống mà những xung đột căng thẳng giữa các nước trên thế giới có thể được giải quyết bằng phương pháp phô diễn sức mạnh quân sự và khả năng sẵn sàng sử dụng sức mạnh đó.
Hơn một lần Liên bang Xô viết đã sử dụng khả năng biểu dương sức mạnh quân sự để ngăn chặn những thảm họa chiến tranh. Một trong những tình huống đó là năm 1979, Kremlin đã có những hành động quyết liệt biểu dương sức mạnh của các lực lượng vũ trang và khả năng sẵn sàng sử dụng sức mạn đó để giải quyết những mâu thuẫn chính trị. Và chính sự quyết liệt đó đã ngăn chặn một cuộc chiến tranh lớn ở khu vực Đông Nam Á.
Diễn tập bắn đạn thật – là những hoạt động huấn luyện chiến đấu của các lực lượng vũ trang các nước với mục đích làm tăng khả năng sẵn sàng chiến đấu, khả năng điều hành tác chiến và liên kết phối hợp, đồng thời cũng kiểm tra thử nghiệm vũ khí trang bị phương tiện chiến tranh trên chiến trường.
Nhưng trên thực tế diễn tập có bắn đạn thật là biểu dương sức mạnh quân sự nhằm mục đích răn đe, ngăn chặn hoặc thể hiện khả năng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang. Đồng thời, diễn tập cũng là phương thức nhằm đưa các đơn vị quân đội vào trạng thái sẵn sàng tiến hành một cuộc chiến tranh.
Một trong những yếu tố nhanh chóng làm tỉnh lại những nhà chính khách đã mê muội bởi tham vọng chính trị, với sự tự tin thái quá về khả năng của mình, đó là cho họ thấy được sức mạnh quân sự mà trong trường hợp họ vẫn không tự nhìn nhận lại tình huống, họ sẽ phải đối đầu trực diện. Thực hiện được điều đó thì phô diễn sức mạnh quân sự phải thật sự hiệu quả.
Kinh nghiệm phô diễn sức mạnh quân sự nhằm đạt được mục đích chính trị, thông thường nước Mỹ hay nghiên cứu và áp dụng vào thực tiễn. Nhưng trong thực tế đấu tranh trên thế giới, Liên bang Xô viết vào năm 1979 đã triển khai sức mạnh quân sự của mình một cách quyết liệt và hiệu quả, khiến cho một cường quốc trên thế giới như Trung Quốc buộc phải chùn tay, còn cả thế giới nín thở với sự khủng khiếp chờ đợi ngày “D”.
Xung đột biên giới năm 1979
Sau khi quân tình nguyện Việt Nam cùng với các lực lượng yêu nước Campuchia tiến hành các chiến dịch quân sự chống lại lực lượng quân sự Khơ me Đỏ và chính quyền Pol Pot. Sức ép mọi mặt lên nhà nước Việt Nam ngày càng tăng cả về ngoại giao, kinh tế, quân sự...
Trên tuyến biên giới phía bắc Việt Nam, lực lượng thù địch đã triển khai một tập đoàn quân: Thê đội 1-15 sư đoàn bộ binh, thê đội 2-6 sư đoàn dã chiến. Dự bị chiến dịch có 3 sư đoàn. Tổng thể cụm quân lực triển khai các hoạt động tác chiến trên biên giới có thể tăng cường đến 29 sư đoàn. Rạng sáng ngày 17/ 2, đội quân khổng lồ này ồ ạt tấn công trên toàn tuyến...
Cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc năm 1979 chính thức nổ ra...
Liên bang Xô viết quyết định thực hiện sứ mệnh vô cùng khó khăn trong điều kiện tình huống phức tạp và nguy cơ bùng nổ chiến tranh trên diện rộng – thiết lập lại sự công bằng và hòa bình trên bán đảo Đông Dương bằng phương pháp biểu dương sức mạnh quân sự.
Nhưng với những cái đầu nóng, thực hiện giải pháp nửa vời và không quyết liệt là không thể, mà còn thúc đẩy quốc gia mang tư tưởng nước lớn muốn 'dạy một bài học' cho nước khác tiến hành cuộc chiến tranh ác liệt hơn. Moskva đã quyết định hành động rất cứng rắn và quyết liệt ngay từ ban đầu.
Cuộc diễn tập lớn nhất trong lịch sử quân sự thế giới
Các hoạt động biểu dương sức mạnh và ý chí được quyết định vào đầu tháng 3/1979. Trong giai đoạn từ ngày 12 đến 26/3 (với mục đích tạo áp lực quân sự lên Trung Quốc do những hành động gây chiến chống lại nước láng giềng) theo quyết định của Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Liên xô, trên tất cả các quân khu vùng biên giới phía Đông, trên lãnh thổ Mông Cổ và trên biển Thái bình dương tiến hành cuộc diễn tập hiệp đồng quân binh chủng và diễn tập hải quân có sử dụng đạn thật.
Trong cuộc diễn tập lớn nhất trong lịch sử quân sự có sử dụng lực lượng của 20 sư đoàn binh chủng hợp thành và không quân. Quân số tham gia diễn tập lên đến 200 nghìn quân nhân, 2.600 xe tăng, 900 máy bay và 80 chiến hạm. Cuộc diễn tập bắt đầu từ thời điểm động viên lực lượng và đưa các đơn vị thường trực chiến đấu từ thường xuyên lên toàn bộ. Từ lực lượng dự bị động viên điều động 52 nghìn quân nhân dự bị động viên hạng 1, động viên từ các cở sở thuộc ngành Nông nghiệp hơn 5 nghìn xe ô tô các loại.
Những đợt diễn tập lớn nhất được thực hiện tại Mông Cổ, trong diễn tập có sự tham gia của 6 sư đoàn Bộ binh Cơ giới và Tăng thiết giáp, 3 trong số các đơn vị được điều động từ Siberia và Zabaikalia. Ngoài ra trên lãnh thổ Mông Cổ tham gia diễn tập có 2 lữ đoàn, 3 sư đoàn không quân chiến trường, các đơn vị và phân đội đặc chủng tăng cường.
Ngoài ra, cũng trong giai đoạn đó, đồng thời tiến hành các hoạt động diễn tập thực binh của các lực lượng trên vùng Viễn Đông và Đông Kazakhstan, có sự tham gia của các đơn vị binh chủng hợp thành và các đơn vị không quân, phối hợp với lực lượng Biên phòng.
Trong tiến trình diễn tập đã thực hiện nội dung liên kết phối hợp giữa các lực lượng. Các đơn vị và phân đội trong điều kiện khí hậu và môi trường khắc nghiệp đã tiến hành cơ động trên khoảng cách rộng lớn, từ Siberia đến Mông Cổ (hơn 2.000 km). Các đơn vị được tổ chức biên chế thành đơn vị chiến đấu ngay trên tầu hỏa, được vận chuyển bằng đường không.
Cụ thể, sư đoàn đổ bộ đường không từ Tula được vận chuyển vào khu vực Chita trên quãng đường dài 5,5 nghìn km bằng máy bay vận tải quân sự một đợt bay trong thời gian 2 ngày. Các trung đoàn máy bay chiến đấu từ lãnh thổ của Ucraina và Belarusia được cơ động trực tiếp đường không đến các sân bay của Mông cổ.
Trên những khu vực biên giới với Trung Quốc, các đơn vị phòng thủ biên giới triển khai phác thảo các kế hoạch tổ chức phòng ngự, đánh chặn các đòn tấn công xâm phạm khu vực biên giới, kế hoạch phản kích các đòn tấn công và kế hoạch phản công.
Trên các vùng biển phía Đông và Nam Trung Quốc có gần 50 chiến hạm của hạm đội Thái Bình dương, trong đó có 6 tầu ngầm, tiến hành các hoạt động sẵn sàng chiến đấu và đồng loạt triển khai diễn tập các hoạt động tác chiến nhằm tiêu diệt lực lượng hải quân đối phương. Riêng vùng biển Primorie tiến hành diễn tập đổ bộ đường biển.
Một trong những mối quan tâm đặc biệt là kinh nghiệm triển khai các cụm quân công kích chủ lực của Lực lượng Không quân trên biên giới với Trung Quốc, do đặc thù có ưu thế vượt trội về không quân, như một phương tiện tác chiến tầm xa, “phi tiếp xúc”. Trong giai đoạn ngày nay sẽ là yếu tố quan trọng làm nguội đi những cái đầu nóng của người láng giềng đầy tham vọng mà không tự lượng sức mình.
Theo các kế hoạch diễn tập, đã tiến hành tổ chức biên chế các cụm chủ lực hàng không công kích của các trung đoàn không quân trên các quân khu gần biên giới Trung Quốc. Các tập đoàn máy bay chiến đấu chuyển sang vị trí đóng quân cố định trong khu vực miền Đông, không chỉ là từ các quân khu lân cận, mà cả từ Pricarpathian trên quãng đường bay dài tới 7.000km trong vòng hai ngày.
Vấn đề không phải là vài chục chiếc máy bay chiến đấu, được rút ra từ các phân đội bay sẵn sàng chiến đấu thường xuyên, mà là các trung đoàn bay đầy đủ theo biên chế. Cùng với các máy bay chiến đấu, các máy bay vận tải vận chuyển luôn cả các đơn vị hậu cần kỹ thuật, các trang thiết bị, kỹ thuật dự trữ và cơ sở vật chất dự phòng theo biên chế.
Có những thời điểm trên không trung cùng lúc bay hàng chục trung đoàn không quân chiến trường. Ngay sau khi các đơn vị không quân hạ cánh, các đơn vị và phân đội không quân lập tức nhận nhiệm vụ và triển khai tham gia huấn luyện diễn tập. Trong quá trình tiến hành các hoạt động chuyển quân và diễn tập chiến đấu tiến công, các kíp lái đã cơ động hơn 5000h, sử dụng hơn 1.000 quả bom và tên lửa.
Một khối lượng khổng lồ vũ khí trang bị, phương tiện chiến đấu, cơ sở vật chất, vận chuyển từ Liên bang Xô viết, đã giải quyết toàn bộ vấn đề về trinh sát đường không của địch trên lãnh thổ Việt Nam. Một bộ phận không quân đảm bảo vận tải trên lãnh thổ Việt Nam. Thành quả và khối lượng không thể tưởng tượng được của hàng không vận tải quân sự đã thực hiện trên cầu hàng không được thiết lập giữa CCCP và Việt Nam.
Trong khuôn khổ chương trình diễn tập và vận chuyển khí tài chiến đấu trong không đầy một tháng đã tiến hành cơ động 20 nghìn quân nhân của lực lượng vũ trang Việt Nam, hơn 1.000 đơn vị (unit) trang thiết bị chiến đấu, 20 máy bay quân sự và máy bay trực thăng, hơn 3 nghìn tấn vũ khí trang bị, đạn và cơ sở vật chất phục vụ chiến tranh.
Liên bang Xô viết đã thực hiện sứ mệnh cao cả của mình, bằng sự giúp đỡ của tinh thần đồng chí, tăng cường sức mạnh quân sự cho quân đội nhân dân Việt nam bằng giải pháp cung cấp khí tài quân sự. Trong giai đoạn đầu tiên của cuộc xung đột vũ trang đến tháng 3/1979 theo đường vận tải biển đã chuyển đến Việt Nam hơn 400 xe tăng và xe thiết giáp, xe bộ binh cơ giới, 400 khẩu pháo và súng cối, 50 tổ hợp pháo phản lực Grad BM-21, hơn 100 khẩu pháo phòng không, 400 tổ hợp tên lửa phòng không vác vai và hàng nghìn tên lửa, 800 súng chống tăng RPG-7, 20 máy bay tiêm kích.
Ngoài vũ khí trang bị, Liên bang Xô viết còn cung cấp các hệ thống trang thiết bị đặc chủng và các dây truyền sửa chữa xe máy công trình phục vụ bảo dưỡng và sửa chữa trang thiết bị, phương tiện chiến tranh. Tất cả các trang thiết bị, phương tiện chiến tranh và hệ thống sửa chữa, bảo hành trang thiết bị đi cùng đó đều được chuyển đến trong vòng một tháng. Vũ khí, trang thiết bị kỹ thuật đều trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu và có thể đưa vào chiến đấu được ngay.
Toàn bộ trang bị kỹ thuật, phương tiện chiến tranh được kiểm tra bởi các đoàn kiểm tra kỹ thuật nghiêm khắc nhất, để chuẩn bị đã điều động các chuyên gia, trong thực tế đã khai thác sử dụng triệt để các trang thiết bị đó và có kinh nghiệm sâu sắc về khai thác sử dụng.
Như vậy, các phương tiện chiến đấu, từ các phương tiện vận tải, không cần có sự chuẩn bị bổ sung, có thể đưa thẳng vào chiến trường. Đây thật sự là một kỳ tích của hệ thống hậu cần, kỹ thuật, vận tải của quân đội Xô viết cả về tốc độ cung cấp và vận tải trang bị, số lượng vũ khí trang bị, khả năng sẵn sàng chiến đấu của vũ khí trang bị khi cơ động trên hàng chục ngàn km đường biển.
Trong thời gian diễn ra cuộc tập trận tổng lực của quân đội xô viết, người Trung Quốc căng thẳng theo dõi mọi diễn biến và có thể đánh giá được, thật sự họ đang ở trong một tình huống nghiêm trọng như thế nào? Đến mức họ không dám đưa lực lượng quân đội của họ từ vị trí đóng quân ra biên giới Xô – Trung.
Ngoài biên giới, các phương tiện thông tin đại chúng tập trung toàn bộ sự chú ý, theo dõi và đưa ra những phỏng đoán về cuộc diễn tập quân sự, lớn nhất trong lịch sử chiến tranh hiện đại, diễn ra trong khu vực châu Á.
Các hoạt động diễn ra rất quyết liệt, theo đúng thực tế chiến trường chứ không hề có cảm giác “tình huống giả định, một bước tiến – hai bước lùi”. Và áp lực chiến tranh nặng nề đè lên thế lực hiếu chiến, buộc họ phải suy nghĩ tỉnh táo và kiềm chế tối đa..
Không đạt được những mục tiêu chính trị, tổn thất nặng nề về binh lực, ngày 5/3/1979, Bộ máy lãnh đạo Bắc Kinh quyết định rút quân khỏi lãnh thổ láng giềng. Quyết định đó bị thúc đẩy bởi hàng loạt các yếu tố chính trị và quân sự, những yếu tố then chốt đó là:
- Sự ủng hộ kiên quyết của Moskva đối với Hà Nội, yêu cầu ngay lập tức chấm dứt hành động xâm lược vô nhân đạo, khả năng sẵn sàng tiến hành các hoạt động quân sự mạnh nhất trên khu vực phía Đông những mâu thuẫn và bất đồng chính kiến ngay trong nội bộ nhà cầm quyền Bắc Kinh.
- Sự phản ứng mạnh mẽ của thế giới tiến bộ và yêu chuộng hòa bình.
- Sự xuất hiện rõ nét những điểm yếu trong công tác huấn luyện và tiến hành các chiến dịch, thực hành các trận đánh của lực lượng sĩ quan chỉ huy quân đội PLA.
- Trong biên chế các loại vũ khí, trang thiết bị hiện đại, phương tiện chiến tranh, khó khăn nghiêm trọng trong công tác vận tải cơ sở vật chất, hậu cần kỹ thuật.
Các cuộc tấn công chấm dứt từ ngày 20/3 bắt đầu rút quân trên toàn bộ các hướng chủ yếu. Cuộc rút lui được che chắn bởi hỏa lực dữ dội của pháo binh và các cuộc tấn công nghi binh. Trong quá trình rút quân, PLA sử dụng triệt để hỏa lực ngăn chặn của pháo binh, súng cối, gài mìn trên các tuyến đường, phá hoại cầu cống, hủy diệt các khu nông trại, hợp tác xã, làng mạc và khu dân cư.
Cuối tháng 3, Trung Quốc công khai tuyên bố đã rút hoàn toàn quân đội nhưng cuộc đấu tranh giằng co giữa đôi bên còn kéo dài đến tận năm 1989 mới chấm dứt.
Các hành động chính trị quân sự quyết liệt của Liên xô, được thực hiện dưới hình thức chuẩn bị quân sự toàn diện cho cuộc tấn công vào lãnh thổ Trung Quốc, đã đạt được những kết quả mong muốn về chính trị. Bộ máy lãnh đạo Bắc Kinh và quân đội PLA buộc phải từ bỏ hoàn toàn ý đồ của mình.
Cuộc diễn tập đã đạt được những mục tiêu quân sự cần thiết. Sức mạnh quân sự của Liên bang Xô viết đã chấm dứt những mưu toan nước lớn, những ý đồ trong vai trò “anh cả” và tham vọng điều khiển châu lục, buộc Trung Quốc nhìn lại ngay chính lực lượng quân sự của mình và những tham vọng của một "đại quốc".
Việt Nam đã tăng cường đáng kể sức mạnh quân sự, đủ để bảo vệ đất nước và đường lối chính trị độc lập của mình trên trường thế giới.
Quân đội Liên bang Xô viết đã chứng minh được khả năng sẵn sàng chiến đấu cao nhất, đáp ứng được những yêu cầu tác chiến hiện đại và sẵn sàng hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và thực hiện nghĩa vụ quốc tế.
Theo TIỀN PHONG

Vua chúa Đại Việt quyết tâm bảo vệ chủ quyền như thế nào?

Vua chúa Đại Việt quyết tâm bảo vệ chủ quyền như thế nào?

Vua Lý Nhân Tông nói đau lòng nếu làm mất đất của tổ tiên còn Lê Thánh Tông kiên quyết không để mất một tấc đất một thước núi của tiền nhân.
Lời ruột gan của Lý Nhân Tông
Thời trị vì của vua Lý Nhân Tông là thời điểm diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt giữa nước ta với nhà Tống bên Trung Quốc. Năm 1076 nhà Tống sai Quách Quỳ dẫn quân sang định đánh chiếm nước ta. Quân dân ta đã lập phòng tuyến sông Như Nguyệt dưới sự chỉ huy của Lý Thường Kiệt chống trả quyết liệt và dồn quân Tống vào thế bí.
Trong lúc quân Tống ở thế khốn đốn thì Lý Thường Kiệt chủ động cho người sang giảng hòa. Để Quách Quỳ đỡ lăn tăn, Lý Thường Kiệt dụ hắn rằng những đất nào quân Tống đã chiếm là của Tống. Nhưng khi quân Tống rút đến đâu thì quân ta đi theo tới đó thu đất về.
Mặc dù vậy quân Tống vẫn đóng lại 5 châu ở biên giới là Quảng Lang, Tô Mậu, Môn, Tư Lang và Quảng Nguyên. Về sau nhà Lý cho quân đánh úp lấy lại được châu Tư Lang và nhân đó giải phóng cả hai châu Tô Mậu và Môn ở bên cạnh. Riêng châu Quảng Lang và Quảng Nguyên thì nhà Tống vẫn giữ.
Vua Lý Nhân Tông quyết không để mất đất của tổ tiên nên đã dùng nhiều biện pháp cả ngoại giao cả quân sự để thu hồi đất đai. Trong các năm 1077, 1078 nhà Lý đã cử sứ giả liên tục lên biên giới và qua Yên Kinh tranh biện với nhà Tống để đòi đất.
Theo sách Các sứ thần Việt Nam, năm 1078 Đào Tông Nguyên được cử đi sứ để đòi đấu Quảng Lang và Quảng Nguyên. Vua Tống ra điều kiện phải thả các dân Ung, Khâm bị bắt năm 1075 thì mới trả đất. Nhà Lý đã đem trả một số người Tống bị bắt hồi năm 1075 gồm đủ cả già trẻ gái trai. Năm 1079 nhà Tống trả lại châu Quảng Nguyên cho ta. Điều này được ghi trong Đại Việt sử ký toàn thư.
Trong quyết định trả đất, Tống Thần Tông có chỉ dụ được sách Các sứ thần Việt Nam ghi lại rằng: “Thuận Châu (sau khi chiếm Quảng Nguyên nhà Tống cho đổi tên thành Thuận Châu) là nơi lam chướng, dẫu được cũng không lợi ích gì, há nên dồn quân lính vào chỗ chết ư?”. Tuy nhiên dân Trung Quốc không biết đến điều đó nên có câu chế nhạo triều đình rằng: “Tham voi Đại Việt bỏ vàng Quảng Nguyên”.
Vậy là cuối cùng nhà Lý đã lấy lại được lãnh thổ nguyên vẹn như trước khi Quách Quỳ kéo sang. Nhưng chưa dừng ở đây, vua Lý Nhân Tông vẫn ngày đêm canh cánh vì trước đó đám thổ dân biên giới đã làm phản nhà Lý và đem dâng hai động Vật Dương, Vật Ác cho nhà Tống.
Cụ thể động Vật Ác do Nùng Tông Đản nộp cho nhà Tống năm 1057 và vua Tống cho đổi tên thành Thuận An. Năm 1064, Nùng Trí Hội đem nộp động Vật Dương, vua Tống đổi tên thành châu Quy Hóa.
Quyết tâm không để mất một tấc đất của tổ tiên, năm 1084, vua Lý Nhân Tông cho vời Lê Văn Thịnh lúc đó đang là Thị lang bộ Binh vào cung để cử đi lên biên giới đấu tranh đòi lại 2 động này. Trong cuộc gặp, nhà vua đã nói những lời rất giản dị nhưng cũng rất tâm huyết về vấn đề lãnh thổ quốc gia:
“Trẫm định cử khanh làm trưởng phái bộ, cùng Nguyễn Bồi giúp sức tiếp tục nghị bàn với Tống. Hai đất Vật Dương và Vật Ác do tổ tiên để lại, trẫm vô cùng đau lòng nếu để mất hai vùng đất ấy. Khanh hãy gắng sức thương thuyết, đòi lại đất cho trẫm”.
Sau thời gian tranh biện với lý lẽ quyết liệt và xác đáng của Lê Văn Thịnh, sau cùng nhà Tống trả lại đất cho Đại Việt gồm 6 huyện 3 động theo như ghi chép của Đại Việt sử ký.
Một tấc đất một thước núi cũng không thể bỏ
Sau Lý Nhân Tông, vua Lê Thánh Tông cũng là một vị vua rất quan tâm chủ quyền lãnh thổ. Trong thời trị vì của ông, nền quân chủ Việt Nam có bước phát triển đến đỉnh cao về mọi mặt. Do đó mặc dù ở Trung Quốc triều Minh cũng đang ở vào giai đoạn đỉnh cao nhưng vẫn phải dè chừng không dám manh động.
Vua Lê Thánh Tông cũng là ông vua rất chú trọng việc võ bị. Ngay năm đầu tiên lên ngôi (1460) ông đã ra sắc chỉ cho các vệ quân trong cả nước rằng: “Có quốc gia là phải có võ bị. Nay phải tuân theo trận đồ nhà nước đã ban, trong địa phận của vệ mình, phải chỉnh đốn đội ngũ, dạy cho quân lính phép đi, đứng, đâm, đánh, hiểu được mệnh lệnh, tiếng chuông, tiếng trống khiến cho quân lính tập quen cung tên không quên võ bị”.
Đã quan tâm tới võ bị thì tất yếu sẽ đề cao chủ quyền lãnh thổ. Trong đời trị vì của Lê Thánh Tông, hai lần Đại Việt sử ký toàn thư ghi lại chỉ dụ của nhà vua về vấn đề bảo vệ chủ quyền lãnh thổ.
Lần đầu vào năm 1467, niên hiệu Quang Thuận thứ 8, vua sắc dụ quan trấn thủ và Phó Tổng binh các vệ ở các xứ An Bang, Lạng Sơn, Tuyên Quang rằng: “Các ngươi chức vụ đứng đầu một phương khống chế cả cõi biên thùy, phải phòng bị điều bất trắc, để ngăn ngừa giặc ngoại xâm. Cần phải khuyên bảo các tướng hiệu răn đe quân lính, không được quen thói cũ, bỏ trốn về nhà, để trống vị trí phòng thủ, kẻ nào trái lệnh thì trị tội nặng hơn luật thường”.
Lần thứ 2 vào năm 1473, vua Lê Thánh Tông dụ cho Thượng thư bộ Binh Lê Cảnh Huy khi xuất hiện tranh chấp biên giới với nhà Minh: “Một thước núi, một tấc sông của ta, lẽ nào lại nên vứt bỏ? Ngươi phải kiên quyết tranh biện chớ cho họ lấn dần. Nếu họ không nghe, còn có thể sai sứ sang phương Bắc trình bày rõ điều ngay lẽ gian. Nếu ngươi dám đem một thước một tấc đất của Thái tổ làm mồi cho giặc thì phải tội tru di”.
Vị vua anh minh này cũng đặc biệt cảnh giác trước bất kỳ động thái nào của quân phương bắc ở biên giới. Tháng 12/1472, khi có tin quân nhà Minh tập trung đông ở biên giới, nhà vua sắc dụ cho Thượng thư Bộ binh Lê Cảnh Huy rằng: “Nhận được tờ tâu của trấn An Bang nói là người Minh sai quân lính đi theo quan hội khám của Quảng Tây sao đông thế. Người phải hỏa tốc sai người đi thăm dò tình hình. Nếu thấy sự thế khác nhiều thì phải lập tức gửi công văn cho các xứ tập hợp binh mã phòng giữ”.
Lời nói của 2 vị vua triều Lý và triều Lê đã nói lên ý chí giữ gìn độc lập quốc gia và chủ quyền lãnh thổ luôn là ưu tiên số 1 trong chính sách đối ngoại của các vị quân vương Việt Nam thời trước. Sự ưu tiên đó ngày nay Nhà nước vẫn đang kế thừa và phát triển. Đó là chính sách làm bạn thân thiện với mọi quốc gia nhưng giữ vững nguyên tắc độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ.
Theo KIẾN THỨC

Vì sao Đặng Tiểu Bình quyết đánh Việt Nam?

Vì sao Đặng Tiểu Bình quyết đánh Việt Nam?

Chiến tranh Trung-Việt chủ yếu do một mình Đặng Tiểu Bình quyết định. Khi một người hoặc một vài người vội vàng quyết định tiến hành chiến tranh, khó có thể tránh khỏi việc quyết định đó mang màu sắc tình cảm phiến diện, chủ quan của cá nhân, rất dễ phạm phải sai lầm mang tính lịch sử và hậu quả cũng vô cùng đáng sợ.
Tạp chí Tuần san châu Á của Hồng Công số từ 11-18.7.2010 đăng bài của tác giả Giang Tấn về những ân oán trong quan hệ Trung - Việt. Theo Giang Tấn, cuộc chiến tranh biên giới giữa Trung Quốc và Việt Nam năm 1979 chủ yếu là do một mình Đặng Tiểu Bình quyết định nhằm củng cố địa vị của mình.
Dẫn lời ông Nghê Sáng Huy, một người từng trải qua những năm tháng chiến tranh Trung-Việt, tác giả cuốn Mười năm chiến tranh Trung-Việt vừa được Nhà xuất bản Thiên Hành Kiện (Hồng Công) ấn hành vào đầu tháng 6.2010, Giang Tấn cho biết vào năm 1977, Đảng Cộng sản Trung Quốc triệu tập Hội nghị Trung ương 3 khóa X, khôi phục các chức vụ lãnh đạo cho Đặng Tiểu Bình, gồm phó chủ tịch nước, phó thủ tướng Quốc vụ viện, phó chủ tịch Quân uỷ Trung ương và tổng tham mưu trưởng quân đội. Một năm sau đó, Đặng Tiểu Bình lại được bầu làm chủ tịch Chính hiệp Toàn quốc. Cách mạng Văn hoá vừa kết thúc, Đặng Tiểu Bình muốn trước tiên phải lập lại trật tự, thúc đẩy đường lối tư tưởng, nên đưa ra trọng điểm công tác cho cả nước là chuyển dịch sang xây dựng kinh tế. Tuy nhiên, khi đó ở Trung Quốc, tư tưởng tả khuynh trong, ngoài đảng và ở quần chúng vẫn tiếp tục “trượt” theo quán tính. Đặc biệt là nhóm trong Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc do Hoa Quốc Phong cầm đầu vẫn chủ trương tiếp tục duy trì lý luận và thực tiễn của Cách mạng Văn hoá thêm một thời gian. Trong quân đội Trung Quốc cũng có không ít cán bộ cao cấp tỏ ra không thông với chính sách và đường lối của Đặng Tiểu Bình. Chính vì thế, Đặng Tiểu Bình thấy rằng muốn phá vỡ cục diện này, phải tiến hành cải cách mở cửa. Nhưng nếu chỉ dựa vào chức vụ của Đặng Tiểu Bình khi đó thì khó có thể xoay chuyển được tình thế, mà phải cần đến một phương thức có thể quét sạch được mọi chướng ngại của thế lực cực tả đối với cải cách mở cửa.
Theo ông Nghê, nếu như khi đó đưa ra những đánh giá lịch sử về Mao Trạch Đông, phủ định đường lối “hai phàm là” của Hoa Quốc Phong (Phàm là quyết sách Mao Chủ tịch đưa ra, chúng ta phải kiên quyết bảo vệ; Phàm là chỉ thị của Mao Chủ tịch, chúng ta đều phải tuân thủ trước sau như một – P/v TTXVN), thời cơ vẫn chưa chín muồi. Do đó, Đặng Tiểu Bình quyết định lợi dụng chức vụ phó chủ tịch Quân uỷ Trung ương kiêm tổng tham mưu trưởng và sự tín nhiệm của phái nguyên lão trong quân đội đối với mình để tìm kiến sự đột phá từ quân đội. Đặng Tiểu Bình cho rằng cần thiết phải phát động một cuộc chiến tranh chống lại “kẻ xâm lược”, thông qua chiến tranh để chuyển hướng đấu tranh trong nước, tái cố kết sự đoàn kết dân tộc của người dân. Đặng Tiểu Bình cũng muốn nhân cơ hội sau chiến tranh tiến hành điều chỉnh nhân sự trong quân đội. Quả nhiên, sau chiến tranh Trung-Việt, Đặng Tiểu Bình đã làm một cuộc “thay máu” đối với quân đội, đưa một loạt cán bộ trẻ, cán bộ trung niên vào vị trí lãnh đạo. Có thể nói, tiến hành chiến tranh là con đường nhanh nhất giúp Đặng Tiểu Bình xác lập quyền uy tuyệt đối trong Đảng Cộng sản và quân đội Trung Quốc, đẩy mạnh thực hiện kế hoạch cải cách mở cửa.
Ông Nghê cho rằng Trung Quốc đánh Việt Nam là do Việt Nam đưa quân vào Campuchia và Trung Quốc ủng hộ Campuchia chống lại Việt Nam. Ban đầu, Trung Quốc gọi đây là “phản kích tự vệ” sau đó lại đổi thành “đánh trả”. Cuộc chiến tranh biên giới Trung-Việt, theo ông Nghê, tuy đã khiến Việt Nam rút một phần quân khỏi Campuchia, phá vỡ thế bao vây chiến lược của Liên Xô đối với Trung Quốc, làm rõ quân bài chiến lược của Mỹ và Liên Xô, rèn luyện quân đội, nhưng kết quả đạt được rất hạn chế: Không lấy được đất đai của Việt Nam, cũng không lật đổ được chính quyền Việt Nam (nguyên văn là “tập đoàn thống trị Lê Duẩn”). Và mặc dù các mục đích mà Quân uỷ Trung ương Trung Quốc đề ra cơ bản đạt được, nhưng nếu xét về lợi ích chỉnh thể của quốc gia, cái hại vẫn lớn hơn cái lợi. Tại sao vậy? Ông Nghê cho rằng trước tiên là cuộc chiến tranh Trung-Việt đã được các nước phương Tây do Mỹ đứng đầu lấy làm cái cớ để cô lập Trung Quốc. Hai là, việc Trung Quốc xuất binh tấn công Việt Nam đã làm kinh động các nước Đông Nam Á. Ba là, cắt đứt quan hệ giữa Trung Quốc với thế giới thứ ba, khiến Bắc Kinh rơi vào thế cô lập. Bốn là, Trung Quốc mất đi uy tín trong xử lý quan hệ cấp quốc gia. Năm là, chiến tranh Trung-Việt gây tổn thất nặng nề về mặt kinh tế cả cho Việt Nam lẫn Trung Quốc.
Khi nói về trình tự tiến hành chiến tranh, ông Nghê cho biết một cuộc chiến tranh tất yếu phải đi theo những trình tự do pháp luật quy định. Trước đây, quan niệm pháp trị của người Trung Quốc không cao và nó được biểu hiện trong một số cuộc chiến tranh lớn. Ví dụ: Chiến tranh Triều Tiên chủ yếu do một mình Mao Trạch Đông quyết định, Chiến tranh Trung-Việt chủ yếu do một mình Đặng Tiểu Bình quyết định. Một người hoặc một vài người vội vàng quyết định tiến hành chiến tranh, theo ông Nghê, khó có thể tránh khỏi việc quyết định đó mang màu sắc tình cảm phiến diện, chủ quan của cá nhân, rất dễ phạm phải sai lầm mang tính lịch sử và hậu quả cũng vô cùng đáng sợ.
Ông Nghê cho biết chiến tranh Trung-Việt không những không được Đại hội Đại biểu Nhân dân toàn quốc (Quốc hội) thảo luận thông qua, mà cũng không được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn. Theo ông Nghê, chiến tranh phải công khai với nhân dân, cho phép nhân dân bày tỏ thái độ của mình. Nhân dân vốn là chủ nhân của đất nước, nên có quyền được biết tình hình, có quyền được bày tỏ thái độ. Việc nhân dân có thể bày tỏ thái độ một cách tự do đối với một cuộc chiến tranh cũng có lợi cho việc ngăn ngừa một số cá nhân nào đó đi ngược lại ý nguyện của đại đa số nhân dân, phát động chiến tranh.
Theo TTXVN / TẠP CHÍ VĂN HÓA NGHỆ AN