Thứ Năm, 10 tháng 7, 2014

Đảng Cộng Sản Trung Quốc đang trong quá trình sụp đổ

Vụ giàn khoan Hải Dương 981 thể hiện sự mạnh hay yếu của Trung Quốc?
Vụ giàn khoan Hải Dương 981 thể hiện sự mạnh hay yếu của Trung Quốc?
Chỉ trong hơn nửa năm 2014, hàng loạt các diễn biến khủng hoảng gần đây ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á cho thấy chiến tranh tất yếu sẽ đến.
Động lực tham vọng tạo ra khủng hoảng, thúc đẩy tiến trình chiến tranh đều có đầu nguồn từ đệ nhị siêu cường Trung Quốc.
Tranh chấp
Trung Quốc muốn đoạt cửa ngõ sinh tồn và khu vực tranh chấp sinh lợi bằng quyền lực cứng, ngay trong một thời đại mà quyền lực mềm tỏ ra hiệu quả hơn bao giờ hết.
Nước Mỹ và Khối EU dù chưa áp dụng tổng lực quyền lực mềm, nhưng qua sự kiện nước Nga sáp nhập Crimea của Ukraine, chỉ cần sử dụng quyền lực mềm có giới hạn, họ cũng đã làm nguội những cái đầu nóng ở điện Kremli
Với tốc độ và chất lượng từ các cổng thông tin điện tử toàn cầu như hiện nay, có thể nói công dân của từng quốc gia đều có cơ sở thông tin để trở thành nhà bình luận chính trị, quân sự có tầm cỡ.
Một trong những nhận định đáng chú ý nhất tại thời điểm này là Trung Quốc không chỉ đang bị bao vây, cô lập bởi những cánh cửa tự vệ từ các nước láng giềng.
Thực ra, Bắc Kinh đang chống chọi quyết liệt trước tiến trình sụp đổ.
Có nhận định cho rằng, Trung Quốc quyết không rút giàn khoan đang xâm lăng chủ quyền biển của Việt Nam, chính là một trong những bước sửa sai chiến lược cứng.
Và nếu cả khi họ thỏa hiệp để rút giàn khoan thì cũng thuộc sách lược toàn cục nhằm giữ cho Bắc Kinh phần nào đó khỏi thế cô lập để chống chọi, cầm cự giảm thiểu tốc độ tiến trình tan rã.
Mầm mống phát sinh tiến trình sụp đổ của Trung Quốc thuộc về những vấn đề bệnh lý nội tại toàn diện của chính quyền Bắc Kinh và xã hội của Trung Quốc.
 TAP CAN BINH
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình muốn khôi phục ‘Giấc mơ Trung Quốc’
Nhưng chính sự nôn nóng, quá chủ quan thể hiện chiến lược cứng để thực hiện tham vọng “Giấc mơ Trung Quốc”, cụ thể là kéo giàn khoan cùng binh đoàn giàn khoan hùng hậu xuống biển nam đã làm bít cửa sinh tồn của chính họ.
Nếu Bắc Kinh sụp đổ?
Diễn biến chuyện Bắc Kinh sụp đổ cụ thể ra sao?
Có lẽ cộng đồng quốc tế và từng công dân đa quốc gia sẽ đưa những chủ kiến riêng, nhưng ngay lúc này việc xây dựng những kế hoạch dự phòng cho từng dân tộc có chung biên giới với Trung Quốc là việc hết sức thiết thực.
Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Triều Tiên, đồng minh lâu đời của Bắc Kinh, đã chủ động đề nghị Đại Hàn Dân Quốc hình thành một nhà nước liên bang.
Nước Nhật thông qua luật Quyền tự vệ tập thể và có những bước liên minh quân sự, an ninh chiến lược toàn diện kéo dài đến Úc, Tân Tây Lan…
Ngay cả khi chưa có vụ giàn khoan HD 981 xâm lăng chủ quyền biển Việt Nam, Miến Điện cũng đã thức tỉnh trước Trung Quốc.
Chính thể Hà Nội sẽ làm gì? Ngay cả khi Trung Quốc không tiến hành chiến tranh trên bộ với các nước láng giềng, sự sụp đổ của Bắc Kinh đồng thời sẽ có những binh đoàn hùng hậu mất chủ cùng với dân tị nạn tràn qua biên giới thì thể chế Hà Nội sẽ làm gì?
Dư luận cho rằng đó sẽ là cơ hội để Việt Nam thu hồi thực địa chủ quyền Hoàng Sa, Gạc Ma… và các phần đất biên giới bị cướp. Nhưng liệu cơ hội đó có trong tầm suy nghĩ và dũng khí của chính thể Hà Nội không?
Thật khó trả lời cho các tiền đề hệ trọng, như làm cách nào giữ được chủ quyền nếu bùng nổ quá trình Trung Quốc sụp đổ mà họ vẫn nhất quyết không buông Việt Nam?
Làm cách nào ngay cả khi chính quyền cộng sản Bắc Kinh mất hết thực quyền và chạy xuống phía nam nắm chắc Việt Nam? Làm cách nào khi chính thể mới lập ở Bắc Kinh để cho Việt Nam thoát Trung?
Làm cách nào mà khi Trung Quốc tan rã thành nhiều quốc gia nhỏ, trong số những quốc gia đó vẫn ngang nhiên, phi pháp tuyên bố Giàn khoan và binh đoàn giàn khoan đang thực hiện quyền khai thác trên chủ quyền lãnh hải của họ?
Trong suốt quá lịch sử, các chính thể cầm quyền Việt Nam luôn luôn sáng rõ ý thức chủ, khách, bạn, thù của dân tộc Vận mạng dân tộc hiện sinh đến ngày nay đã là minh chứng mạnh mẽ nhất cho ý thức độc lập dân tộc.
Nếu chính thể Hà Nội hôm nay không có những quyết sách mạnh mẽ trước cận cảnh sụp đổ của Trung Quốc, thì chính sự sụp đổ của chính quyền Bắc Kinh sẽ biến thể chế Hà Nội thành bạn đồng hành.
Trần Tiến Dũng

Thoái xuất khỏi ảnh hưởng của Đảng Cộng Sản Trung Quốc là tìm một mô hình khác

Thoát xuất khỏi ảnh hưởng Đảng CS Trung Quốc là tìm một mô hình khác

Tin Đa Chiều - Đăng ngày: 1:53 PM - 04/07/2014
 
Với sự kiện HD 981, những tiếng nói yêu cầu ‘thoát Trung’, dù đã vang lên từ lâu nhưng ít nhận được sự quan tâm đầy đủ, giờ đây trở nên nóng bỏng hơn bao giờ hết.
Sức mạnh của Trung Quốc lan tỏa ra quốc tế và lấn án Việt Nam
Sức mạnh của Trung Quốc lan tỏa ra quốc tế và lấn án Việt Nam
Những phê phán về ảo tưởng ‘đồng minh Ý thức hệ’ giữa Hà Nội và Bắc Kinh đã được nhiều người cảnh báo.
Tuy nhiên, sâu xa hơn, hệ lụy trực tiếp của “Đồng minh ý thức hệ’ không chỉ là những lơ là trong việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, điều đáng lo ngại là Việt Nam đang lệ thuộc lớn vào đối thủ nguy hiểm nhất của mình về Mô hình Phát triển, thứ tạo nên nền tảng quyết định tương lai lâu dài của dân tộc Việt Nam.
Những người Việt Nam quan tâm đến Trung Quốc, dù bị chi phối đến đâu bởi lòng tự tôn dân tộc, cũng không thể không nhận thấy những tương đồng căn bản giữa Việt Nam và Trung Quốc trong cả cấu trúc và tổ chức hệ thống chính trị, xã hội lẫn đường lối và chính sách phát triển kinh tế hay nói rộng ra là Mô hình Phát triển đất nước trong giai đoạn vừa qua.
Hướng về Bắc Kinh
Có thể giới lãnh đạo Việt Nam không ngây thơ tin tưởng quá mức vào những người ‘đồng chí’, nhưng không thể phủ nhận, Hà Nội vẫn đang nhìn về Bắc Kinh như nơi cung cấp chủ yếu những kinh nghiệm về phát triển đất nước.
Mục đích đến hai bên không mấy khác nhau: tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá nhằm bảo vệ tính chính danh và duy trì vị thế độc tôn chính trị của Đảng cầm quyền.
Hậu quả trước mắt đã rõ ràng, chủ quyền lãnh thổ đã và đang bị xâm hại và đe dọa; hàng hóa Trung Quốc đang tràn ngập thị trường Việt Nam và Hà Nội đang lo lắng chuyện bị Bắc Kinh trả đũa về kinh tế.
Và nhìn về tương lai lâu dài hơn, ít người dám lạc quan về việc Mô hình Phát triển hiện nay sẽ đưa Việt Nam đến đâu.
Những quan sát bước đầu có thể chỉ ra rất nhiều tương đồng ở những đặc trưng cốt lõi.
Thứ nhất, về tổ chức hệ thống chính trị, đó là mô hình một chính Đảng độc quyền lãnh đạo và kiểm soát tuyệt đối về mặt chính trị.
Cả hai Đảng Cộng Sản đều đang thực hiện chế độ dân chủ mang tính trình diễn: bầu cử theo chế độ phổ thông đầu phiếu; có hệ thống quyền lực nhà nước được tổ chức theo ba nhánh lập pháp, hành pháp, tư pháp mà họ gọi là ‘tam quyền’ không ‘phân lập’.
Chịu sự lãnh đạo và chỉ đạo từ phía Đảng, các cơ quan tư pháp này hiếm khi giữ được vị thế độc lập đúng nghĩa để thực hiện chức năng tố tụng và giải thích pháp luật của mình.
Những quyền căn bản của công dân và quyền con người nói chung, do đó khó có điều kiện được bảo vệ trong hệ thống tư pháp này.
 canh sat dang
Việt Nam theo Trung Quốc về mô hình một chính Đảng độc quyền lãnh đạo
Khuôn mặt của khối tạm gọi là ‘xã hội dân sự’ tại hai nước cũng không có sự khác biệt đáng kể.
Các hội đoàn chính thức trong hệ thống chính trị- cánh tay nối dài của Đảng Cộng Sản là các tổ chức chính trị xã hội, được gọi là tổ chức quần chúng, hoạt động với ngân sách được cung cấp từ nhà nước.
Các tổ chức xã hội dân sự khác chưa có được vị trí pháp lý chính thức và vẫn là đối tượng nghi kỵ của chính quyền.
Hệ quả của mô hình chính trị và tổ chức nhà nước đó, như Đảng Cộng Sản hai nước đều thừa nhận là tính minh bạch thấp, tham nhũng tràn lan, và sự yếu kém của chính phủ cả ở cấp Trung ương và địa phương.
Hệ thống Chính trị Trung Quốc, như phân tích của nhà nghiên cứu Lý Thành (Cheng Li), lộ rõ những vấn đề nan giải: đó là nạn bè phái và chia rẽ trong hàng ngũ lãnh đạo cấp cao; Chính quyền với năng lực yếu kém trong lúc các nhóm lợi ích càng lúc càng lớn mạnh…
Dù mang những nét đặc trưng cơ bản giống nhau, Trung Quốc, xét một cách khách quan, đang thành công hơn Việt Nam rất nhiều trong việc theo đuổi Mô hình Phát triển kể trên.
Việc xây dựng mô hình Trung Quốc, như Đặng Tiểu Bình thừa nhận là là cách làm ‘dò đá qua sông’;
Việt Nam cũng tự nhận đang xây dựng một thứ “Chủ nghĩa Xã hội chưa có tiền lệ’; tuy nhiên đáng tiếc là dù đi sau, Việt Nam đã không thể làm tốt được như Trung Quốc, cả trong tầm nhìn, hoạch định lẫn thực thi chính sách phát triển.
Việt Nam đi sau xa
Những thành phố lớn như Bắc Kinh, Thượng Hải, Quảng Châu… hiện đại và phát triển (xét về quy hoạch và năng lực quản lý) không thua kém các thành phố hàng đầu thế giới.
Trung Quốc cũng có những công ty, gồm cả tập đoàn kinh tế nhà nước Trung Quốc cũng như tư nhân đã vươn lên trở thành những tập đoàn cạnh tranh toàn cầu.
Vị trí của họ trong chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu đương nhiên cao hơn hẳn Việt Nam, tạo ra giá trị gia tăng lớn hơn, khả năng cạnh tranh cao nhờ năng lực công nghệ vượt trội Việt Nam.
Về Giáo dục, Trung Quốc có được những đại học nằm trong luôn nằm nhóm 100 đại học hàng đầu thế giới, như Đại học Thanh Hoa, Đại học Bắc Kinh.
Nhiều nghiên cứu cho thấy, mức độ ảnh hưởng của các học giả và giới nghiên cứu Trung Quốc lên những người làm chính sách là khá đáng kể.
Điều đó cho thấy, dù cùng ở vị thế có quyền lực tuyệt đối trong hoạch định chính sách, giới lãnh đạo Trung Quốc vẫn biết tôn trọng và tiếp thu có chọn lọc những đóng góp của các học giả và chuyên gia.
Tuy nhiên, giới nghiên cứu và phân tích cũng bày tỏ nhiều hoài nghi sâu sắc về tính bền vững của Mô hình Phát triển Trung Quốc.
Sau gần bốn thập kỷ cải cách, Trung Quốc đang đối mặt với những thử thách gay gắt.
Sự phân hóa thu nhập và chất lượng sống giữa các nhóm xã hội, vùng miền (Vành đai Duyên hải phía Đông và khu vực phía Tây) đang ngày càng sâu sắc; thu nhập của nông dân chậm cải thiện và chính quyền tùy tiện thu hồi đất nông nghiệp phục vụ đô thị hóa.
Những hạn chế của chế độ hộ khẩu và thách thức trong việc đưa hàng trăm triệu công nhân trở thành tầng lớp trung lưu mới; tình trạng ô nhiễm môi trường tồi tệ; xung đột dân tộc leo thang gay gắt ở các khu tự trị.
Nhìn vào mô hình Trung Quốc, nhiều ý kiến cho rằng Trung Quốc sẽ không thể thành công như các nước công nghiệp mới ở Đông Á để đứng vào hàng ngũ các quốc gia phát triển.
Để giải quyết những thách thức đó, Trung Quốc, ngay từ khi bắt đầu nhiệm kỳ mới của Tập Cận Bình đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ để đổi mới mô hình tăng trưởng của mình.
Nhưng cần chú ý rằng, những đổi mới đó, trước hết và chủ yếu tập trung vào vấn đề tăng trưởng kinh tế.
Không có dấu hiệu cho thấy Trung Quốc sẽ đổi mới Mô hình Phát triển của họ, theo nghĩa bao gồm việc tiến hành những cải cách căn bản về chính trị và xã hội.
Nói cách khác, Đảng Cộng Sản Trung Quốc vẫn sẽ tìm mọi cách để duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, né tránh những cải cách hướng tới dân chủ hóa đời sống xã hội.
Cuộc đua phát triển
Dù mang nặng tâm lý “bài Hoa’ đến đâu đi nữa, ít người dám phủ nhận được Việt Nam về đại thể gần như bản sao của mô hình Trung Quốc.
Và dù là người đi sau, Việt Nam lại hầu như không tránh được những vết xe đổ và sai lầm mà Trung Quốc gặp phải.
Nói cách khác, ‘phiên bản phát triển Việt Nam’ còn nhiều lỗi hơn ‘phiên bản gốc’ vốn dĩ đã rất nhiều vấn đề.
 do thi lon tq
Các đô thị lớn của Trung Quốc đều hơn hẳn đô thị Việt Nam
Do đó, nếu hiện trạng này tiếp tục được duy trì, khoảng cách phát triển giữa Việt Nam và Trung Quốc sẽ ngày càng rộng hơn.
Khi đó, trong cuộc cạnh tranh khốc liệt với gã khổng lồ Phương Bắc, những thua thiệt của Việt Nam sẽ càng thể hiện rõ nét hơn.
Từ những quan sát và phân tích ở trên, có thể nói Việt Nam, một cách tỉnh táo và thực dụng hơn, thay vì nhìn Trung Quốc như ‘kẻ thù’, hãy nhìn họ như những đối thủ cạnh tranh trên con đường phát triển.
Bản chất bá quyền và bành trướng của họ đã lộ rõ, nhưng những ngôn ngữ mang màu sắc dân tộc chủ nghĩa và kích động như ‘Trung Cộng’ hay ‘Bè lũ xâm lược Trung Nam Hải’ không phải là vũ khí hiệu quả giúp chúng ta tự vệ thành công.
Muốn vượt lên trên Trung Quốc, Việt Nam cần một mô hình phát triển vượt trội hơn.
Khó khăn rất nhiều, nhưng cơ hội vẫn còn đó, vì với quy mô dân số ít hơn nhiều và mức độ đồng nhất xã hội cao hơn, việc khởi động và chèo lái một cỗ máy phát triển như Việt Nam sẽ đi nhanh hơn là cỗ xe khổng lồ, phân mảnh và phức tạp như Trung Quốc.
Hơn thế nữa, việc một Trung Quốc đang bị cả thế giới soi xét với con mắt dè chừng đầy nghi kỵ cũng là lợi thế không nhỏ cho Việt Nam.
Trong giới hạn bài viết ngắn này, tác giả chưa tham vọng tham gia góp tiếng nói vào việc đề xuất những gợi ý cho một mô thức phát triển mới.
Tuy nhiên, tác giả hoàn toàn đồng ý với đề xuất của nhiều tiếng nói nghiên cứu độc lập (như Huỳnh Thế Du, Jonathan London, Lê Quang Bình, Lê Xuân Khoa … ), đây là thời điểm không thể tốt hơn để Việt Nam có thể đổi mới Mô hình Phát triển và thoát khỏi hoàn toàn quỹ đạo ảnh hưởng của Trung Quốc.
Một cuộc đổi mới toàn diện, tất nhiên sẽ không né tránh những đổi mới về chính trị, bởi hệ thống chính trị là cấu thành quan trọng nhất của mọi mô hình phát triển, quyết định sự thành bại của mô hình đó.
Nhưng đổi mới và dân chủ hóa hoàn toàn không nhất thiết đe dọa vị thế lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam, nhất là khi Đảng Cộng Sản lĩnh xướng và làm chủ quá trình đó.
 viet trung
Đây là thời điểm tốt để Việt Nam thoát khỏi quỹ đạo TQ
Có thể nói, với Đảng Cộng Sản Việt Nam, đây cũng là thời điểm thích hợp và là cơ hội lớn để tái khẳng định tính chính danh và năng lực lãnh đạo của mình.
Nhìn vào tương quan các lực lượng chính trị hiện nay, vị thế cầm quyền của Đảng Cộng Sản vẫn là vững chắc.
Dù đánh mất đáng kể cảm tình của một bộ phận không nhỏ người dân, tại thời điểm này, không một lực lượng chính trị nào đủ điều kiện và có vị thế tốt hơn Đảng Cộng Sản Việt Nam trong việc lĩnh xướng ngọn cờ canh tân đất nước.
Vì vậy, không cần chờ đến Đại hội Đảng gần nhất vào năm 2016, ngay lúc này Đảng Cộng Sản Việt Nam vẫn có thể khởi xướng một cuộc thảo luận rộng rãi trong nội bộ Đảng và các nhóm xã hội về một MÔ THỨC PHÁT TRIỂN mới cho đất nước.
Một ‘hội nghị Diên Hồng’ lúc này, không phải để bàn về ‘Sát Thát’ mà bàn cách xây dựng một con đường, một Mô hình Phát triển vượt trội so với người láng giềng phương Bắc.
Cả trong ngắn hạn lẫn dài hạn, điều Việt Nam cần không phải là một cuộc chiến tranh, đích đến của chúng ta nên là một quốc gia thịnh vượng về kinh tế và bền vững về xã hội và môi trường.
Nên nhớ, Trung Quốc không thể ‘bắt nạt’, cũng không dám gây chiến với Hàn Quốc hay Nhật Bản bởi những nước này tiến bộ hơn hẳn họ về mức độ phát triển.
Và với Đảng Cộng Sản Việt Nam, vị thế và tính chính danh của họ sẽ được duy trì, không phải bằng trấn áp các tiếng nói độc lập và đối lập mà là đưa Đất nước thành công trong cuộc canh tân.
Vì vậy, HD 981 không đơn thuần là mối họa, nó là đưa đến cơ hội lớn lao để khởi xướng một DIÊN HỒNG về con đường và Mô hình Phát triển mới cho Việt Nam, mở ra tương lai phát triển lâu dài cho đất nước.
Quang Nguyễn

Ai tiếp tay Trung Quốc độc chiếm Biển Đông

Ai tiếp tay cho Trung Quốc độc chiếm Biển Đông?


(PetroTimes) - Trước năm 1974, Trung Quốc không có “mảnh đất cắm dùi” ở Biển Đông thì nay họ lại đòi chủ quyền đến 80% diện tích sau khi cưỡng chiếm Hoàng Sa của Việt Nam. Ai đã tiếp tay cho Trung Quốc làm điều này?
Ai tiếp tay cho Trung Quốc độc chiếm Biển Đông?
Tàu Trung Quốc bắn vòi rồng về phía tàu Việt Nam (ảnh chụp từ tàu Trung Quốc)
Nếu xâu chuỗi những dự kiện lịch sử, liệu chúng ta có thể thấy được vai trò gì của Mỹ trong việc này?
Hẳn chúng ta còn nhớ năm 1972, Trung Quốc đã bán đứng Việt Nam cho Mỹ bằng Thông cáo Thượng Hải ra ngày 27/2/1972, tức là 10 ngày sau khi Tổng thống R. Nixon rời Mỹ đến Bắc Kinh.
Với bản Thông cáo này, Trung Quốc buộc Mỹ chấp nhận chính sách “một Trung Quốc”, mở đường cho việc đẩy Đài Loan ra khỏi Liên Hiệp Quốc, để nhường chỗ cho Trung Quốc lục địa. Đổi lại Mỹ cần Trung Quốc giúp giải quyết chiến tranh Việt Nam. Và Trung Quốc đáp ứng.
Sau khi được Trung Quốc “bật đèn xanh”, từ ngày 18/12 đến ngày 30/12/1972, Mỹ trở mặt và cho mở chiến dịch Linebacker II, mà ta gọi là Trận Điện Biên Phủ trên không, bằng cách dùng máy bay ném bom B-52 rải thảm suốt 12 ngày đêm nhằm huỷ diệt Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên và các mục tiêu khác.
Kết quả, Mỹ thất bại ê chề và buộc phải nối lại đàm phán tại Paris, dẫn đến ký kết Hiệp định Paris năm 1973.
Trong thời kỳ này, Báo Nhân dân đã có bài xã luận "Thắng lợi của xu thế cách mạng", qua đó tỏ rõ quan điểm của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa miền Nam Việt Nam là "thời kỳ của các nước lớn tập trung lại để đè bẹp các nước nhỏ đã vĩnh viễn qua rồi". Đồng thời qua bài xã luận này, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa còn thể hiện thái độ của mình với cuộc gặp giữa Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai với Tổng thống Richard Nixon tại Thượng Hải, Trung Quốc.
Ai tiếp tay cho Trung Quốc độc chiếm Biển Đông?
Tổng thống Nixon (phải) bắt tay Chủ tịch Mao Trạch Đông ngày 29/2/1972
Chỉ hai năm sau vụ Trung Quốc bán đứng Việt Nam cho Mỹ, năm 1974, Mỹ và Trung Quốc tiếp tục câu kết để Trung Quốc chiếm Hoàng Sa của Việt Nam.
Từ ngày 17 đến 20/1/1974, diễn ra cuộc hải chiến giữa lực lượng hải quân Việt Nam Cộng hòa và các lực lượng vũ trang của Trung Quốc tại Hoàng Sa. Trung Quốc đưa quân đánh chiếm các đảo thuộc nhóm đảo phía tây của quần đảo Hoàng Sa do quân đội Việt Nam Cộng hòa kiểm soát. Trong giai đoạn này, Mỹ thực hiện chính sách “mơ hồ” đối với vấn đề chủ quyền Biển Đông, thực chất là làm ngơ trước việc Trung Quốc từng bước lấn chiếm Biển Đông.
Ngày 20/1/1974, vào lúc xảy ra hải chiến Hoàng Sa, Ngoại trưởng Việt Nam Cộng hòa Vương Văn Bắc đã thông báo tình hình chiến sự cho Đại sứ Mỹ Martin và yêu cầu Mỹ cho biết có dành cho Việt Nam Cộng hòa sự ủng hộ nào về vật chất, chính trị với tư cách là nước đồng minh, cũng như với tư cách là quốc gia đã ký kết và bảo đảm cho Hiệp định Paris 1973 không? Nhưng không nhận được trả lời của Hoa Kỳ.
Ngày 22/1/1974, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu đã gửi thư cho Tổng thống Mỹ Richard Nixon về biến cố Hoàng Sa.
Một số tư liệu giải mật gần đây của Bộ Ngoại giao Mỹ cho biết rõ hơn về thái độ “thấy chết mà không cứu” của Mỹ trong vụ Trung Quốc đánh chiếm khu vực thuộc quần đảo Hoàng Sa do quân đội Việt Nam Cộng hòa kiểm soát năm 1974. Hồ sơ chính thức về hoạt động ngoại giao của Chính phủ Mỹ giới thiệu biên bản cuộc họp ngày 25/1/1974, một tuần sau trận hải chiến Hoàng Sa, tường thuật cuộc họp về Đông Dương do Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger chủ trì, có đoạn:
- Đô đốc Thomas H. Moorer, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu liên quân, báo cáo: “Chúng ta đã tránh xa vấn đề”.
- Ngoại trưởng Kissinger hỏi lại: “Chúng ta chưa bao giờ ủng hộ tuyên bố chủ quyền của họ (chính quyền Nam Việt Nam) phải không?”.
- Đô đốc Moorer trả lời: “Toàn vùng đó là cả vấn đề. Trường Sa và các đảo khác có cùng vấn đề - đó là lãnh thổ đang tranh chấp. Chúng tôi đã ra lệnh tránh khỏi vùng đó”.
- Ngoại trưởng Kissinger hỏi: “Ai khởi đầu trận chiến ở Hoàng Sa?”.
- Đô đốc Thomas H. Moorer mô tả: “Một đội tuần tra của Nam Việt Nam trong khu vực phát hiện một số tàu Trung Quốc tiến về các đảo và đưa khoảng 75 người lên đảo Duncan (Quang Hòa). Đó là một trong các đảo phía nam của nhóm Nguyệt Thiềm”.
Và kết quả của những cuộc thảo luận trong giới chóp bu Hội đồng An ninh quốc gia Mỹ về cuộc hải chiến Hoàng Sa đã dẫn tới chủ trương được ghi rõ trong biên bản cuộc họp, có đoạn: “Chúng ta chỉ thị cho Đại sứ quán Mỹ tại Sài Gòn khuyên Chính phủ Việt Nam cộng hòa thực thi những hành động tối thiểu để tự vệ và cứu công dân của họ (và sĩ quan Mỹ), nhưng cần làm bất cứ điều gì có thể để tránh đụng độ trực tiếp với lực lượng của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Điều cuối cùng mà Chính phủ Việt Nam Cộng hòa hoặc chúng ta cần lúc này là làm sao cho cuộc đụng độ giữa Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Chính phủ Việt Nam Cộng hòa về các đảo ít tác động tiêu cực tới vai trò của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trong cuộc xung đột tại Việt Nam”.
Thế rồi, Nhà Trắng đã ra thông cáo báo chí có đoạn: “Chính phủ Hoa Kỳ không đứng về phe nào trong các cuộc tranh chấp xung đột về quần đảo Hoàng Sa, song mạnh mẽ mong muốn giải quyết tranh chấp một cách hòa bình... Lực lượng quân sự Mỹ không dính líu vào vụ này”.
Cũng cần nhắc lại, trong cuộc gặp ngày 23/1/1974 với Hán Tự, quyền Trưởng Phái đoàn liên lạc của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tại Washington, Ngoại trưởng Kissinger nói: “Mỹ không có lập trường trong việc ủng hộ tuyên bố chủ quyền của Nam Việt Nam tại các đảo này”.
Vậy thì Mỹ có dính dáng gì đến vụ Trung Quốc ngang nhiên đưa giàn khoan Hải Dương 981 vào vùng chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông ngày 2/5/2014 hay không?
Quan hệ Mỹ-Trung giờ đây đã chuyển sang một giai đoạn vừa là đối tác vừa là đối thủ chiến lược. Một mặt, chính quyền Mỹ nói việc Trung Quốc sử dụng vũ lực để thay đổi nguyên trạng tại Biển Đông sẽ làm ảnh hưởng tới tự do hàng hải. Tuy nhiên, đây là lý do rất mù mờ. Chả ai đem tàu chiến ra chặn thương thuyền bao giờ. Mỹ nói chuyển trục sang châu Á để bao vây Trung Quốc, nhưng từ mấy năm nay, kế hoạch này trục trặc đủ đường, chưa đi đến đâu cả.
Mặt khác, Mỹ tuyên bố sẽ không đánh đổi quan hệ kinh tế, thương mại với Trung Quốc chỉ để bảo vệ các đồng minh, vốn chẳng đem lại nhiều lợi lộc gì cho Washington, tại châu Á.
Câu hỏi đặt ra là Mỹ được gì từ việc để Trung Quốc xâm chiếm Việt Nam và xa hơn nữa là độc chiếm Biển Đông? Đây là câu hỏi khó có lời giải đáp rõ ràng. Có thể giữa Mỹ và Trung Quốc không có màn đi đêm trong vụ Trung Quốc kéo giàn khoan vào vùng chủ quyền của Việt Nam, nhưng cũng có thể Mỹ biết mà làm lơ để từ đó buộc Việt Nam phải từ bỏ chính sách độc lập tự chủ, ngả hẳn theo Mỹ. Việc có được đồng minh như Việt Nam với 3.260 km bờ biển, lại tiếp giáp phía nam của Trung Quốc, là điều “mơ ước” của nước Mỹ trong việc ngăn chặn sự lớn mạnh của Trung Quốc.
Những phản ứng của Mỹ sau khi Trung Quốc xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam cũng chỉ dừng ở những phát biểu ngoại giao. Đây được đánh giá là phản ứng quá nhẹ đối với hành động xâm lược của Trung Quốc.
Cũng có thể, sự làm lơ của Mỹ trong vụ này sẽ được Trung Quốc đền đáp bằng một thứ gì khác, hoặc về kinh tế hoặc về ngoại giao, nhất là khi Mỹ đang rất cần Trung Quốc trong cuộc đối đầu với Nga tại Ukraina. Có lẽ thời gian sẽ cho chúng ta câu trả lời cụ thể.
H.Phan (tổng hợp)