Chủ Nhật, 23 tháng 6, 2019

Lá thư từ gia đình ở Thiên quốc


Bài viết của một đệ tử Đại Pháp ở Trung Quốc Đại lục
[MINH HUỆ 20-3-2017] Có một học viên nam trẻ tuổi đã cùng tôi làm rất nhiều hạng mục chứng thực Pháp khác nhau. Do công việc bận rộn, cộng thêm con nhỏ mới sinh chưa đầy một tuổi, nên thời gian gần đây anh ấy xuất hiện lười biếng trong học Pháp và tu luyện, bị tà ác lợi dụng sơ hở. Biểu hiện trong không gian người thường là xuất hiện triệu chứng thở dốc khá nghiêm trọng, ảnh hưởng đến việc học Pháp tu luyện và thậm chí ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày. Bởi vì tôi sống một mình, nên tôi đã bảo anh ấy đến chỗ tôi để cùng nhau học Pháp, luyện công liên tục mấy ngày, nghiêm túc hướng nội. Tuy rằng triệu chứng nghiệp bệnh có giảm bớt, nhưng chưa được trừ tận gốc.
Một đêm, do nhiều ngày liên tục phát chính niệm cường độ cao, đồng tu ngủ say sưa như một đứa trẻ. Bỏ đi những ưu phiền buồn bực, gương mặt mỉm cười bình yên ngủ trên ghế sofa ở phòng khách. Còn tôi thì không ngừng liên tục phát chính niệm.
Ở đây tôi muốn nói rõ một điểm: Trải qua 22 năm tu luyện Đại Pháp, tôi đã ở trong trạng thái tiệm ngộ nhất định. Tư tưởng của tôi cùng với thân thể tu luyện ở không gian khác là hợp nhất. Ý đến là công đến, tâm đến là thân đến. Ở trong định, tôi đã vượt qua hàng trăm triệu năm quá trình sinh mệnh của đồng tu. Tôi phát hiện trong một thời kỳ lịch sử xa xôi, vị nam đồng tu này đã từng chuyển sinh thành một vị Thần biển trong thần thoại của phương Tây. Trong thế giới thần thoại phương Tây, vị đó cai quản một thế giới đại dương. Bức tượng Thần biển mà chủng tộc mỹ nhân ngư thờ cúng ở trong cung điện dưới đáy biển mang hình tượng của nam nhân ngư, trong tay cầm chiếc đinh ba. Vật cúng tế cho Thần biển là rất nhiều những hạt ngọc trai lớn trắng tinh, được đặt trong vỏ sò. Trong khi tôi đang quan sát quá trình cúng tế của chủng tộc mỹ nhân ngư, đột nhiên nước biển trở nên sáng ngời, xuất hiện rất nhiều hạt ánh sáng, từ đó dẫn tôi đến cánh cổng mở ra một thời không của không gian khác.
Trong nháy mắt tôi tiến nhập vào không gian khác. Sau khi tiến nhập tôi nhìn thấy một đại dương xanh biếc mênh mông bát ngát, bầu trời rộng lớn xanh thẳm với nhiều đám mây trắng, gió nhẹ thổi vào mặt, ánh sáng ấm áp và không khí mát mẻ. Trên bầu trời có ba mặt trời, khi nhiệt độ tăng cao đến một mức nhất định thì ba mặt trời hợp thành một, phát ra ánh hào quang ấm áp. Nhìn về phía xa, giữa đại dương có một hòn đảo lớn, trên đảo có các loài thực vật nhiệt đới rậm rạp. Ở đó vách núi cao lớn dựng đứng, trên không trung có một loại rồng khổng lồ có cánh đang bay lượn, rất giống những con rồng trong truyền thuyết thần thoại phương Tây. Thân thể của chúng có rất nhiều màu, trên thân có vảy mịn và đôi cánh khổng lồ, đuôi rất dài. Sau khi phát hiện ra tôi, chúng phát ra âm thanh rất lớn như sấm của loài rồng, bất chợt có rất nhiều con thú hình rồng bay lên từ hòn đảo, trên mỗi con có một kỵ sĩ rồng mặc áo giáp, áo giáp có cùng màu sắc với thân rồng, tạo thành ba đội hình mũi tên, bay lên phía trước tôi. Chúng bay sát mặt biển, dường như chỉ đường cho tôi tiến về phía trước. Đi về phía trước, tôi nhìn thấy trên mặt biển có các Thần thú đang đi tuần tra, như cá heo, hải mã, cá voi khổng lồ… Trên biển thậm chí còn có một nhóm người đang đi qua, có sinh mệnh có hình tượng nam, có sinh mệnh có hình tượng nữ, y phục phất phơ tung bay, giống như đang lơ lửng trong nước, dần dần bơi về phía xa…
Khi sắp tiếp cận đất liền, các loài chim trên bờ biển thấy có kỵ sĩ rồng bay tới liền nhộn nhịp kêu lớn tránh về hai bên để nhường đường bay. Trên bờ biển là bãi cát trắng, có những chiếc thuyền buồm lớn giống như ở phương Tây cổ đại, có cái đang căng buồm xuất phát, có cái thì đang đậu gọn gàng ở bến tàu. Nhóm người tại bờ biển đang rất bận rộn, họ có cách ăn mặc giống hình tượng người phương Tây cổ đại, tóc màu vàng hoặc đỏ. Tôi bay theo trên không theo sau chín con rồng khổng lồ cùng với kỵ sĩ rồng, nhìn thấy những ngọn núi cao vút ẩn trong mây, những con sông lớn, rừng rậm rộng lớn vô tận, thảo nguyên bất tận trải dài xanh biếc, cùng các loại Thần thú.
Trên thảo nguyên bát ngát có một đàn Thiên mã màu trắng đang phi nước đại, đằng sau đàn bạch mã có một sinh mệnh mang hình tượng nửa người nửa ngựa đang chạy theo. Thân thể của họ có màu nâu nhạt, hình tượng nam thì vạm vỡ, đầu đội mũ giáp đơn giản, thân khoác áo giáp ngực, người đeo cung tên và túi đựng tên, tay cầm một cây thương nhọn. Hình tượng nữ của sinh mệnh nhân mã cũng mặc áo giáp ngực, hình thể nhỏ nhắn xinh xắn, cao tầm 1 mét 8, dài 3 mét, hai bên lưng đeo đoản kiếm. Họ đang chăn thả Thiên mã. Lúc đến dòng sông, Thiên mã nhao nhao mở rộng đôi cánh màu trắng bay qua dòng sông, còn sinh mệnh nhân mã thì nhảy một cái là vượt qua dòng sông rộng lớn…
Tôi còn trông thấy rất nhiều thành phố và thị trấn phồn hoa. Kiến trúc và phong cách ăn mặc đều giống như phong cách du mục Bohemian ở Trung Âu. Mọi người đều mặc trang phục màu trắng. Hình tượng nam thanh niên đeo cành ô-liu với chất liệu khác nhau trên đầu, biểu thị đẳng cấp và cảnh giới của sinh mệnh đó. Nữ giới có tóc màu vàng và đỏ, búi tóc ăn mặc giống như trang phục thời La Mã cổ đại, cổ đeo trang sức ngọc hình hoa tường vi màu đỏ. Hình tượng nữ vị thành niên thì trên đầu tết bím tóc, trên bím tóc cài một hoặc vài đóa hoa bách hợp màu trắng.
Tiếp theo, kỵ sĩ rồng dẫn tôi đến một quần thể kiến trúc khổng lồ bằng đá ngọc màu trắng. Trên không trung tất cả đều chuyển hướng bay về phía bên trái trên vùng đồng bằng màu xanh lục. Quần thể kiến trúc màu trắng cực kỳ hùng vĩ, trang nghiêm, tao nhã. Nhưng ngoại trừ cấm vệ quân giống như thời La Mã đang bảo vệ bên ngoài cửa cung và những kiến trúc quan trọng, không có sinh mệnh nào được tùy ý đi lại. Chỉ có những bông hoa tường vi với đủ màu sắc khác nhau đang nở rộ xinh đẹp, dưới ánh mặt trời tỏa ra hương thơm mát mẻ dễ chịu. Giữa quần thể kiến trúc đó, tôi thấy chính điện trong Thiên cung là một căn phòng lớn được chống bởi rất nhiều cột trụ màu trắng rất lớn. Phần trên và phần giữa của cột trụ và tường đều có những họa tiết trang trí tinh xảo bằng vàng. Tiến vào đại sảnh của đại điện, ở chính giữa có một hồ nước hình chữ nhật hướng về ngai vàng của hoàng đế. Trong hồ nước xanh có những viên trân châu lớn màu trắng. Hai bên ngai vàng có 12 chỗ ngồi nhỏ màu vàng, trong phòng bày biện phong phú xa hoa, nhưng cung điện rộng lớn lại yên tĩnh không một tiếng ồn.
Bước ra khỏi đại điện, tôi nhìn thấy xung quanh kiến trúc mỗi tòa cung điện đều có những khu lâm viên do hoa cỏ và cây cối tạo thành, phối hợp với những đặc điểm kiến trúc ở đó, thể hiện các loại phong cách khác nhau: Có chỗ hoa lệ tinh xảo, có chỗ đơn giản thanh thoát, có chỗ cẩn thận khéo léo. Tôi đi đến phía trước một kiến trúc hình tròn màu trắng, kiến trúc này bốn phía đều có những cột trụ hình vuông, dùng ngôn ngữ của nhân loại thì gọi là Cung điện Thủy tinh.
Tiến vào trong Cung điện Thủy tinh, nền nhà và bốn phía hoàn toàn được làm bằng thủy tinh. Nền nhà trong suốt nối thẳng đến đỉnh, và được khảm nạm một đóa hoa tường vi lớn màu đỏ đang nở rộ. Đặt ở phía Nam và hướng về phía Bắc là một bức tranh chân dung lớn, vẽ hình tượng vị nam đồng tu này tại Thiên An Môn đang giương tấm biểu ngữ chứng thực Pháp. Ánh mắt đồng tu kiên định và không sợ hãi, mang theo nụ cười thản nhiên nhìn về phía trước!
Tôi từ các góc độ khác nhau nhìn bức họa, thì đều là hình tượng lập thể tại các góc độ khác nhau của đồng tu. Ngắm nhìn bốn phía bức tường có các bức họa vẽ hình tượng đại biểu cho các lần chuyển kiếp của đồng tu tại các thời kỳ khác nhau ở thế gian, trong đó có một bức vẽ hình tượng Thần biển, tay cầm cây đinh ba.
Đi vào giữa đại sảnh, một chùm ánh sáng từ mái vòm trong suốt chiếu lên người tôi, lập tức trong đại sảnh xung quanh thân thể tôi xuất hiện rất nhiều thiên thể, tinh hệ cùng thiên hà vận hành như một bức ảnh lập thể. Tôi giống như đang đi vào vũ trụ bao la, hơn nữa từng thời khắc đều vận hành thuận theo sự vận chuyển của những thiên thể, tinh hệ đối ứng với sự việc xảy ra trong thế giới đó. Tại vị trí trung tâm của thiên thể đó, có một tinh hệ vô cùng nhỏ bé bị ánh sáng vàng bao trùm xung quanh, đó chính là tiểu vũ trụ đối ứng với địa cầu của chúng ta.
Ra khỏi Cung điện Thủy tinh, tôi đứng ngắm nhìn quần thể kiến trúc hoàng cung, nếu như kiến trúc giống như âm nhạc đọng lại, thì đó là một khúc nhạc khí thế hào hùng, với cảnh sắc tráng lệ, sáng sủa và đầy màu sắc. Tôi chuẩn bị rời khỏi quần thể kiến trúc hoàng cung. Đột nhiên tâm tôi chấn động bởi sự trang nghiêm và trống trải!
Lúc trước khi kỵ sĩ rồng bay qua thảo nguyên rộng lớn, đã tập hợp đội hình đông đảo các binh sĩ thần tộc. Binh sĩ thần tộc thân mặc giáp da tương tự như binh sĩ La Mã cổ đại, đầu đội mũ giáp và đi giày chiến xếp thành từng hàng chỉnh tề. Phía trước là chín kỵ sĩ rồng, bên cạnh họ là chín con long thú to lớn cao gần 10 mét, phía sau là đội hình các binh sĩ cầm những tấm khiên lớn, lao, đoản kiếm và các loại vũ khí của các chiến sĩ thần tộc.
Hai bên của đội hình có hai kỵ sĩ cưỡi Thiên mã, phía trước có một đội quân gấu trắng, phía sau là một đội cung thủ do các Thần thú nhân mã tạo thành. Phía trước của toàn bộ đội hình có một vị Thiên thần có hình tượng nam, đầu đội một cành ô-liu màu vàng đi đến gần tôi, đưa tay phải lên trước ngực và hướng về phía tôi hành lễ, đồng thời các binh sĩ thần tộc và các loại Thần thú cũng cúi đầu hành lễ.
Vị Thiên thần hướng về phía tôi nói: “Đệ tử chính Pháp tôn kính, cảm tạ ngài tới thăm Vương quốc Tường vi của chúng tôi, cảm tạ ngài đã trợ giúp vị Quốc Vương của chúng tôi đang chuyển sinh ở nhân gian – chính là vị đồng tu của ngài. Chúng tôi cũng khẩn cầu ngài truyền đạt lại với đồng tu rằng chúng tôi vô cùng nhớ Quốc Vương. Xin ngài chuyển bức gia thư này tới Quốc Vương của Thiên quốc chúng tôi. Cuối cùng xin ngài hãy chấp nhận lời cảm tạ chân thành nhất của chúng tôi!”
Tôi chắp tay hợp thập, nhận lấy một cuộn thư, trên đó có phong ấn hình hoa tường vi màu đỏ. Hành lễ xong, vị Thiên thần từ từ lùi xuống nhập vào đội quân. Các chiến sĩ thần tộc lại một lần nữa đứng hành lễ chỉnh tề.
Các kỵ sĩ rồng ở phía trước hạ mặt nạ vàng kim xuống, đồng thời tất cả kỵ sĩ bước lên phía trước thần thú của mình, rút đoản kiếm ra. Tất cả các chiến sĩ thần tộc đều ngẩng đầu, mắt nhìn về phía trước, ánh mắt sáng ngời. Tiếp theo, long thú màu vàng kim đứng đầu kêu lên một tiếng ngắn và cao vút, các chiến sĩ thần tộc bắt đầu dùng kiếm đập vào khiên tạo thành tiết tấu, phát ra tiếng nổ vang, có trật tự nhưng vẫn kinh hồn động phách: Thùng! Thùng! Thùng! Thanh âm kia giống như tiếng tim đập của vô số các chiến sĩ trên chiến trường. Ánh mắt của mỗi chiến sĩ thần tộc lóe lên thần sắc kiên định không sợ hãi, giống với ánh mắt của đồng tu khi anh đang giơ tấm biểu ngữ chứng thực Pháp ở Quảng trường Thiên An Môn. Các thần thú há miệng hở ra răng nanh thở hồng hộc mạnh mẽ, gầm mà không phát ra âm thanh. Kèm theo nhịp đánh, các chiến sĩ thần tộc bắt đầu cất lên tiếng hát:
“Khi thế giới suy đồi sắp sụp đổ,
Lúc mây đen che lấp ánh mặt trời
Ngài, Vương chủ vĩ đại của chúng tôi, cảm hóa bởi Sáng thế chủ,
Bước trên con đường gập ghềnh gian nan, trong gió tuyết, phá tan sương mù hắc ám, vung lưỡi kiếm sắc bén,
Chém hết yêu ma tà ác!
Khi sinh mệnh đáng thương sắp ra đi,
Khi hoa tươi sắp tàn lụi,
Ngài, Vương chủ vĩ đại của chúng tôi, cảm hóa bởi Sáng thế chủ
Bước qua con đường huỷ diệt chết chóc, trong gió rét, tiêu diệt mây mù vô tận, đẩy lùi mây đen
Mang đến hy vọng của sinh mệnh!
****
Dần dần, cảnh tượng Thiên quốc trở nên mờ ảo, âm thanh cũng dần biến mất, nhưng sự cảm động vẫn lưu lại trong tâm tôi một lúc lâu, không thể bình tĩnh. Sau khi xuất định, tôi đem những gì đã trải nghiệm tại thế giới Thiên quốc của đồng tu kể lại, cũng đem lá thư từ Thiên quốc ra đọc cùng đồng tu. Mở phong ấn ra, phong ấn hoa tường vi biến thành vô số cánh hoa, mang theo mùi hương kỳ lạ lan toả trên sàn nhà.
Trong thư viết:
Vương chủ tôn kính của chúng tôi:
Ngài rời khỏi Thiên quốc để tới thế giới phàm trần đã hàng trăm triệu năm rồi. Trong năm tháng dài đằng đẵng, chúng con không lúc nào không tưởng nhớ đến Ngài! Mặc dù không thể ở cạnh Ngài, nhưng tấm lòng của chúng con luôn ở bên Ngài, chưa bao giờ nguôi, mà ngày càng sâu sắc hơn.
Thưa Vương chủ, trong lòng chúng con Ngài là vĩ đại nhất, Ngài đã vì chân lý của vũ trụ mà quên cả sinh tử;
Thưa Vương chủ, trong lòng chúng con, Ngài là vĩ đại nhất, Ngài đã vì hạnh phúc của thế giới chúng con mà trải qua bao nhiêu khổ nạn.
Tại thời khắc lịch sử vĩ đại chuyển giao giữa vũ trụ cũ và mới, Ngài đã phó xuất vô hạn để cứu thế giới của chúng con, cứu sinh mệnh của chúng con. Ân đức của Ngài vĩnh viễn khắc ghi trong sinh mệnh của chúng con, chúng con sẽ đồng sinh cộng tử với Ngài, vĩnh viễn như vậy!
Với lòng kính yêu sâu sắc
Người nhà từ Thiên quốc của Ngài
****
Đọc được một nửa, đồng tu đã đẫm nước mắt, chính là cảm thấy mình không đủ tinh tấn, xấu hổ với sự chờ đợi của chúng thần ở Thiên quốc. Sau đó trong cuộc sống, chúng tôi luôn dĩ Pháp vi Sư, cùng nhau tinh tấn, không lâu sau đồng tu cũng phá trừ được bức hại của cựu thế lực, khôi phục trạng thái tu luyện chính thường.
Sau khi trải qua giai đoạn cùng tu luyện với đồng tu, tôi thường nghĩ: Sư tôn đã ban cho chúng ta sinh mệnh, và để bảo chứng cho các đệ tử Đại Pháp tu luyện Chính Pháp đã gánh chịu vô số tội nghiệp cho chúng ta và các chúng sinh. Vô lượng chúng thần ở Thiên quốc đã ký thác cho chúng ta toàn bộ lòng tin và sự chờ đợi. Đối mặt với trách nhiệm vĩ đại của đệ tử Đại Pháp mà lịch sử giao phó, chúng ta trong khi tu luyện Chính Pháp đã phó xuất được những gì cho Đại Pháp và chúng sinh? Vì Đại Pháp và chúng sinh, chúng ta sẽ phó xuất được những gì đây?
Tôi nghĩ rằng có lẽ mỗi vị đồng tu đều nên tĩnh tâm xuống để nghiêm túc suy ngẫm một chút.

Bản tiếng Hán: http://www.minghui.org/mh/articles/2017/3/20/344460.html
Bản tiếng Anh: http://en.minghui.org/html/articles/2017/4/8/162764.html
Đăng ngày 3-6-2017; Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.

Văn hóa Thần truyền: Niệm khởi nghiệp thành, quả báo khác biệt


Bài viết của Xuất Phàm
[MINH HUỆ 29-02-2012] Người xưa nói: “Lòng người sinh một niệm, Trời Đất đều biết hết. Thiện ác nếu không báo, Trời Đất ắt vị tư.”
Câu nói này để cảnh tỉnh những chúng sinh đang trong mê rằng thiện ác hữu báo, như hình với bóng. Thực ra thiện ác của con người không chỉ nhìn hành động, nghe lời nói, cho dù ở giữa niệm khởi niệm diệt thì thiện ác quả báo cũng phân biệt rõ trắng đen, rõ ràng phân minh rồi.
Con người trong mê, tâm sinh một niệm si vọng, xem ra như là không có gì đáng kể, thực tế quả báo đã hình thành. Người niệm nhẹ mà đức lớn thì dùng thân lãnh chịu, để tỏ rõ mắt Thần khó giấu che, từng ly từng tí cũng phải hoàn trả. Người niệm nặng mà đức mỏng thì tiền đồ hủy hoại hết, để hiển thị lẽ Trời không nương tình, quả báo không sai lệch.
Trường Châu có một thư sinh, đến nhà bạn làm thơ phú, viết bài có tiêu đề “Trí giả nhạo thủy” (Bậc trí giả yêu thích nước), tự thấy văn vẻ nổi bật. Các bạn cũng ca ngợi không ngớt.
Đêm xuống rượu say trở về nhà, trong lòng vọng tưởng: “Nếu mình khoa cử đỗ đạt thì sẽ lấy cô bé A Canh nhà hàng xóm làm thiếp. Mình sẽ làm một mật thất cho A Canh, mua cho cô y phục trang sức hoa lệ kiều diễm.”Trằn trọc suy nghĩ viển vông, đến canh ba vẫn không tài nào ngủ được. Anh thư sinh lấy lá trà nhai nát trong miệng ra nhổ lên mặt vợ, nửa đùa nửa mắng rằng: “Hoạn Thư, Hoạn Thư”.
Có một người địa phương chuyên giúp người khác sao chép thư tịch. Đêm đó nguyên thần được Thần Thổ địa đem đi viết sổ sách. Thấy sổ sách có viết tên người thư sinh kia, trên có bút đỏ phê rằng: “Suy nghĩ tuy theo vọng tưởng, nhưng cảnh thực sự là do người. Vì hắn vọng tưởng nên vào ngày 17 tháng Giêng chịu quả báo đói rét một ngày ở trạm dịch Tùng Lăng.”Người sao chép tỉnh dậy bèn viết những điều mình thấy lên trên tường.
Hôm sau người sao chép đến nhà thư sinh bái kiến. Lúc đó thư sinh đang thử y phục, chỉnh lý giày, chuẩn bị đến nhà ngoại theo lời mời đi du lịch cảnh núi Mai Tây.
Kết quả thuyền đi qua cầu Tân Kiều thì đâm vào thuyền của sứ giả tuần giang, tất cả người trên thuyền đều bị bắt. Anh thư sinh do có thân phận thư sinh nên không bị trói, nhưng bị giữ ở đầu thuyền. Những người cùng đi với thư sinh bị dẫn đến dịch quán Ngô Giang rồi mới được phóng thích. Thư sinh bị đói rét suýt nữa thì chết.
Câu chuyện về một người trẻ tuổi họ Lý quê quán Phúc Kiến càng khiến người ta kinh sợ. Học trò Lý vốn tinh thông thi thư giỏi viết văn, khi tham gia thi khoa cử, trên đường đi qua một quán trọ ở Cừ Châu bèn vào tá túc. Đối với học trò Lý chủ quán nói năng rất thân thiện, tiếp đãi đặc biệt nhiệt tình. Học trò Lý bèn tìm chủ quán hỏi nguyên do. Chủ quán nói, đêm qua tôi mộng gặp Thần Thổ địa nói với tôi rằng: “Ngày mai có một tú tài họ Lý, anh ta sẽ đỗ đầu khoa thi cử, cần đối xử tốt với anh ta.”
Học trò Lý nghe vậy trong lòng rất vui sướng, đêm về suy nghĩ khoa cử đỗ đạt sẽ làm quan như thế nào. Khi nghĩ đến người vợ ở nhà, trong tâm sinh ra một niệm: “Vợ là khi mình lấy lúc nghèo khổ, sau khi mình làm quan thì quả không xứng làm phu nhân của mình, nên bỏ vợ rồi cưới người khác.”
Hôm sau học trò Lý rời quán trọ lên đường cho kịp kỳ thi. Đêm hôm đó chủ quán lại mộng gặp Thần Thổ địa nói: “Người học trò trẻ này tâm địa bất thiện. Chưa thi đỗ chưa có công danh mà đã nghĩ vứt bỏ người vợ kết tóc rồi, lần này thi sẽ bị trượt.”
Sau đó học trò Lý quả nhiên thi trượt, bơ phờ trở về. Anh lại đến tá túc ở quán trọ lần trước. Chủ quán lại đem chuyện mộng gặp Thần Thổ địa kể với học trò Lý. Học trò Lý nghe xong thất sắc, xấu hổ, hận bản thân mà rời đi.
Trái lại, con người nếu trong thời khắc then chốt mà trong tâm sinh thiện niệm, nhẹ thì tiêu trừ khổ nạn, hợp với đức hiếu sinh của Thần Phật, tốt hơn nữa thì xoay chuyển vận mệnh, là sáng tỏ cái lý họa phúc do con người.
Triều Thanh có một hòa thượng tu hành trong đền Quan Đế. Hòa thượng tâm địa thuần tịnh, tu luyện tinh tấn. Nhưng lúc đó đúng lúc ở địa phương có nạn cướp hoành hành. Một buổi tối, ông mộng thấy một vị Thần nói với ông rằng: “Ngày mai là ngày chết của ông. Có một tên cướp cưỡi ngựa trắng đến, tên gọi là Chu Nhị. Anh ta với ông trong đời quá khứ có oán chưa trả, do đó lẩn trốn là không có tác dụng.”
Trong mộng, hòa thượng cầu khẩn: “Xin Thần Tiên niệm tình con đời này thường tu hành việc thiện, xin cứu giúp con.”
Thần nói: “Ta không thể cứu ông được, muốn cứu ông thì chỉ có bản thân ông tự cứu mình.”
Hôm sau quả nhiên có tên cướp tiến vào trong núi, hắn cưỡi ngựa cũng đúng là con ngựa trắng. Tên cướp túm lấy hòa thượng rồi truy vấn nơi tiền tài và phụ nữ ẩn náu, đồng thời uy hiếp bắt ông phải dẫn đường cho hắn. Hòa thượng trong tâm tự nghĩ rằng: “Hôm nay là ngày hết mệnh của ta, nếu lại giúp tên cướp cướp bóc của cải hãm hiếp phụ nữ, thế thì tội càng nặng thêm.”
Vì vậy hòa thượng nói lớn với tên cướp rằng: “Ta không làm dẫn đường cho ông. Ông chẳng phải Chu Nhị đó sao? Ta vì oán xưa đáng bị ông giết, ông chỉ giết ta là được rồi.”
Tên cướp kinh ngạc thất sắc nói: “Sao ông lại biết tên ta? Ông nhất định là một vị cao tăng đắc đạo.”
Hòa thượng kể chuyện mộng gặp Thần cho hắn nghe, tên cướp liền vứt gậy đi, vừa than vừa nói rằng: “Oan oan tương báo đến bao giờ mới hết? Thần nói không cứu ông, do đó điều thực sự cứu ông chính là ông đã không làm dẫn đường cho tôi, chính là bản thân ông đã cứu chính mình. Tôi với ông bây giờ giải trừ tất cả những ân oán trong lịch sử, thế thì còn có gì không thể nữa đây?”
Thế là tên cướp quỳ xuống lễ bái trước tượng Thần, sau đó xuống núi ra đi.
(Theo “Đức dục cổ giám” của Sử Ngọc Hàm đời Thanh)

Đăng ngày 23-06-2019; Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.

Bầu trời lịch sử: Vương triều trên thiên quốc



Tác giả: Thiện Dũng 
[ChanhKien.org] Phật Pháp đối với người tu luyện trong các tầng thứ khác nhau có các pháp tương ứng triển hiện trong các tầng thứ khác nhau. Khi tu luyện trong các trạng thái và tầng thứ khác nhau, hình thức diễn hóa của vật chất và sự tồn tại của sinh mệnh trong các tầng thứ khác nhau mà Pháp triển hiện cho tôi vô cùng phong phú, tráng lệ và mỹ hảo, nhưng đó không phải là chân tướng căn bản của vũ trụ. Chỉ có kiên định chính niệm đối với chân lý vũ trụ nơi thế gian, chỉ khi ở cùng Sư tôn vĩ đại trong thời kỳ Chính pháp, trợ Sư chính Pháp, đây mới là sự việc vĩ đại nhất và có ý nghĩa nhất không có bất kỳ sự việc nào sánh được.
Trong một lần nhập định, Pháp đã triển hiện cho tôi thế giới thiên quốc trong một tầng rất thâm sâu ở không gian khác đối ứng với thân thể của tôi. Đó là một thế giới rộng lớn vô hạn được tạo nên bởi các loại đá quý (như thủy tinh, lưu ly, mã não…) và vàng. Tất cả mọi thứ trong thế giới thiên quốc đều lấp lánh ánh sáng, rực rỡ ánh vàng kim. Tất cả các sinh mệnh và vật chất trong thế giới đó đều có màu sắc vô cùng tươi sáng, mỹ diệu. Không khí nơi đây cực kỳ thuần tịnh, mây mù mờ mịt, biển mây bồng bềnh, các đám mây cuồn cuộn cao xa, những rặng núi mờ ảo, nhấp nhô, bầu trời xanh biếc, sâu thẳm.
Ở giữa những rặng núi trải dài, tôi kinh ngạc phát hiện có rất nhiều ngọn núi to lớn lơ lửng trong không trung, có ngọn núi bay cách mặt đất hàng trăm mét, đỉnh núi chìm trong mây mù, trên núi có nhiều loại cây cối, thực vật, kỳ hoa dị thảo và các loại động vật quý hiếm. Bỗng nhiên xuất hiện một con mãnh hổ chạy xuyên qua giữa rừng, nhảy một phát từ độ cao mấy trăm mét, từ từ hạ xuống mặt đất, rồi chạy vào trong rừng rậm. Bên dòng suối trong rừng, một con kỳ lân lông màu lam đang uống nước, toàn thân kỳ lân có vảy bao phủ, trên đầu có hai chiếc sừng, hai con mắt màu đỏ, thần thái an hòa, thư thái. Bên cạnh nó có vài con kỳ lân nhỏ đang chơi đùa đuổi bắt, tiếng kêu của chúng giống như tiếng hươu, nai. Trên ngọn cây cao đến mức tầm nhìn có thể thấy được, có một con phượng hoàng như trong truyền thuyết, toàn thân màu vàng kim giống như màu ngọn lửa đang bốc cháy, trông vô cùng rực rỡ. Con phượng hoàng vẫy vẫy đôi cánh và cái đuôi dài của nó, dang rộng đôi cánh lớn, hướng mỏ lên trời, cất tiếng hót trong trẻo, thánh thót, vang vọng cả núi rừng.
Khắp mặt đất nơi thiên quốc tràn đầy các loài hoa tươi đua nhau khoe sắc, muôn hình vạn trạng, như một dải hoa gấm trải đầy trên mặt đất xanh tươi. Nơi đây quả thực là một biển hoa! Trong không khí tràn đầy mùi thơm của các loài hoa, mùi hương bao phủ lấy con người. Quan sát kỹ trên mỗi cánh hoa trong suốt đều có một chữ nhỏ, giống như loại chữ triện trong các bài thơ cổ, những chữ này hòa cùng với các đường gân trên cánh hoa, vô cùng sống động, vừa thần kỳ, vừa mỹ diệu. Nội dung của các chữ này có lúc như là một bài kệ (lời hát trong kinh Phật), đó là triển hiện trong không gian này của các Pháp lý ở các tầng thứ khác nhau mà người tu luyện chứng ngộ được qua quá trình ma luyện kiên định và cực khổ ở thế gian.
Nơi ở của chúng Thần trong thiên quốc là những tòa tháp được xây dựng hoàn toàn bằng vàng, y phục của thiên nhân và phong cách kiến trúc ở thiên quốc giống với phong cách triều Đường vào thời kỳ thịnh thế. Lầu các nguy nga, tầng tầng trùng điệp, phía sau các ngôi nhà chính có hoa viên, bên trong có đình đài, ao hồ, rừng cây, vườn trúc. Trong nhà có bàn, giường, đàn, kiếm, bếp lò, gấm, rương, sa, trướng… Đồ dùng ăn uống hầu hết được làm bằng vàng, bạc. Tôi thấy chúng Thần trên thiên quốc cũng đều đang học sách “Chuyển Pháp Luân”, nhưng cuốn sách “Chuyển Pháp Luân” mà chúng sinh trên thiên quốc học có những chữ triện màu vàng kim, cuốn sách là loại sách lật sang bên phải, nội dung và nội hàm văn tự trong sách hoàn toàn khác với cuốn sách “Chuyển Pháp Luân” tại nhân gian.
Trong thiên quốc không chỉ có những biển hoa đang nở rộ, những cây hoa màu sắc rực rỡ, mà còn có những cây ăn quả sai trĩu trịt, quả trên cây đều căng tròn. Quả chín sẽ tự rời khỏi cành và bay đến chỗ cành cây thấp mà tay có thể với tới được, xếp hàng ngay ngắn ở đó chờ được hái. Phía xa là những cánh đồng lúa gạo, lúa mạch màu vàng. Những cây lúa cao gần 2m, to như cánh tay, hạt lúa to như quả bóng bầu dục tại nhân gian. Hạt gạo nhỏ hơn hạt lúa mạch một chút.
Chúng sinh bách tính trong thế giới thiên quốc sinh sống trên mặt đất, còn các vị Thần có quả vị thì “sinh sống” trong một quần thể kiến trúc giống như cung điện ở trên không trung. Do cảnh giới quả vị khác nhau nên quy mô của cung điện cũng khác nhau.
Ở trung tâm của thế giới thiên quốc có một tòa thiên cung màu vàng rực rỡ, nguy nga, rộng lớn. Phòng ốc có đến mấy vạn gian, bên trong đó có các lâu đài cao đến trăm mét, ở giữa có các cây cầu hình vòm nối giữa các tầng lầu, ẩn hiện trong mây. Tất cả các tòa kiến trúc đều dùng đá trắng làm móng, bậc thềm bằng vàng. Bề mặt các cột trụ được phủ một lớp sơn mài màu đỏ, trên các bình phong và cánh cửa đều trạm khắc những hoa văn tinh xả, diễm lệ. Mái nhà được lợp bằng ngói lưu ly màu vàng, xung quanh các căn phòng được trang trí bằng ngọc lưu ly màu lam và xanh lục.
Trước thiên cung là một quảng trường rất rộng, được lát bằng bạch ngọc, đứng thủ hộ xung quanh là các thiên thần mặc giáp vàng trong tay cầm giáo dài. Phía trước là một cổng cung điện, được đặt trên đài lớn, hai bên cổng là hai tòa lầu gác, cờ bay phấp phới, canh phòng nghiêm ngặt. Đi thêm một đoạn là một tòa chính điện rộng lớn với mái nhà ba gác. Tòa chính điện được xây trên một cái đài hai tầng cao mấy chục mét, đài được trang trí tinh xảo, đẹp mắt, bên trên trạm khắc hình tượng các loài Thần thú. Nhìn ra phía sau của chính điện là vườn hoa của cung đình, xung quanh có các lầu gác cao, những hành lang có mái che, sân khấu biểu diễn, cây cối, hoa cỏ, sơn thủy đầy đủ mọi thứ. Các thiên nhân mặc các loại trang phục lộng lẫy, chân đạp trên mây, đi qua đi lại tấp nập. Bên trong các phòng ốc được trang trí trang nhã, quý phái, long lanh như châu ngọc, các bức tường hoa văn tinh xảo. Đồ dùng ăn uống đều là những đồ vật quý giá, đồ đựng rượu bằng ngọc bích, chén rượu bằng hổ phách, các đồ vật khác đều làm từ mã não, thủy tinh. Chúng Thần trong cung dường như rất bận rộn, trong thiên cung, các tấm màn trướng, màn sân khấu đều được thay thế bằng những tấm vải lụa lớn màu đỏ, phía trước cổng các cung treo các loại đèn cung đình và cờ quạt, khung cảnh tràn ngập không khí vui mừng.
Bên trong tất cả quần thể kiến trúc có một tòa kiến trúc rất đặc biệt, độc lập với các kiến trúc khác, nằm ở vị trí trung tâm của hậu cung, đây là một điện có mái hình tròn ba tầng và đỉnh nhọn, được lợp bằng ngói lưu ly màu lam. Hình dáng tương tự như điện Thiên đàn ở Bắc Kinh. Tên của điện này theo ngôn ngữ của con người gọi là “Điện Điển Tàng”. Bước vào trung tâm của điện có tám bức bình phong lớn hình chữ nhật, trên đó trạm khắc bản đồ núi non sông nước, được trang trí bằng ngọc bích và các loại đá quý. Phía trước bình phong là một chiếc bàn, trên bàn có một cuốn thư tịch rất dày, phía dưới bàn là một cái lư hương màu vàng tím, từ đỉnh lư hương bay ra một làn hương thoang thoảng. Khi tôi động niệm muốn xem cuốn thư tịch thì cuốn sách tự động bay lên và mở ra, từ cuốn sách phát ra một luồng sáng màu vàng, tạo thành một màn hình lập thể rất rộng trong không trung, tư duy của tôi lúc này là trạng thái tư tưởng của sinh mệnh tại không gian khác, nó có phần không giống với trạng thái tư duy của người thường tại nhân gian. “Tư tưởng” của tôi tiến nhập vào màn hình lập thể trong cuốn thư tịch, bên trong là một không gian cực kỳ rộng lớn, tất cả cảnh vật và con người đều trở nên “chân thực”. Thì ra trong cuốn thư tịch ghi chép lịch sử sinh mệnh của tôi vì để đắc Pháp mà đời đời kiếp kiếp chuyển sinh nơi hồng trần thế gian. Tôi thấy tôi đời đời kiếp kiếp đã phải chịu khổ vô số khổ nạn, thấy tôi từng trải qua vô số phong ba bão táp, cô đơn hiu quạnh, chìm nổi chốn quan trường, sinh ly tử biệt, khí thế hào hùng nắm giữ giang sơn.., các quá trình sinh mệnh đều trôi qua trước mắt như mây khói, như bừng tỉnh từ trong giấc mộng. Trang cuối cùng của cuốn thư tịch bỏ trống, là vì tôi hiện đang là đệ tử Đại Pháp còn đang ở thế gian trợ Sư chính Pháp.
Lúc này từ trên thiên không vọng tới từng hồi từng hồi trống hùng dũng, mạnh mẽ. Trước mắt tôi đột nhiên xuất hiện vô số thiên nhân và chúng Thần, nhiều không kể xiết, tất cả đều lặng lẽ ngóng trông tôi, trong ánh mắt vui mừng của họ có chút buồn rầu, lo âu, tràn đầy hy vọng, họ đã ngóng trông tôi như vậy rất lâu, rất lâu rồi. Cùng lúc đó, trong thiên cung vọng ra một hồi âm thanh huyên náo, cửa thiên cung mở ra, một đội nghi lễ gần 1000 người đi ra. Đi cuối cùng là một nữ thiên nhân đoan trang, phong thái tao nhã. Cô trông khoảng 17-18 tuổi, mặc y phục màu xanh nhạt, thắt đai quay eo, trên đỉnh đầu cài một bông hoa mẫu đơn màu xanh lục, đeo một cái vòng màu trắng quanh đầu, quanh thân thể cô có một vòng hào quang rất lớn màu xanh lục, cô đứng trên một đóa hoa sen màu trắng rất lớn, trên cổ đeo một vòng khuyên màu vàng, tay đeo hai chiếc vòng ngọc, tai đeo khuyên tai bằng ngọc màu lục, trên đầu cài một cây trâm bằng ngọc bích, khuôn mặt mỉm cười, dung mạo cực kỳ xinh đẹp. Hai thị nữ đi bên cạnh cô, một người cầm trong tay một cái mâm tròn, bên trên trải một tấm vải lụa trắng, bên trái mâm đặt một cái trùy bằng kim cương, bên phải mâm đặt một cái chuôi như ý màu vàng, trong ký ức của tôi thì đây là những pháp khí mà tôi thường sử dụng khi ở thiên quốc. Vị thiên nhân đó nhẹ nhàng cúi chào tôi và cất giọng dịu dàng, thanh tao nói với tôi: “Thưa Vương của con! Ngài đã vì chúng con mà đã chịu rất nhiều đau khổ, chúng con luôn khắc ghi trong tim những hy sinh của ngài. Ngài mãi là niềm tự hào của thế giới chúng con. Trong những năm tháng tương lai lâu dài, ngài là niềm vinh hạnh của chúng con. Chúng con sẽ mãi tuyên tụng uy đức của ngài. Lúc Ngài trở lại Thiên quốc chính là lúc khởi đầu thực sự cho sinh mệnh của chúng con. Các con dân của ngài đang ngày đêm mong chờ ngày ngài trở về …”
Nói đến đây tôi nhìn thấy hai dòng nước mắt chảy ra từ đôi mắt trong sáng, mỹ lệ của cô, tuôn đầy trên đôi má thanh khiết, theo gió thổi rơi xuống mặt đất nơi thiên quốc, tại nơi nước mắt rơi xuống lập tức mọc lên hai đóa hoa màu lam nhạt, mỗi đóa hoa có bốn cánh hoa, trên cánh hoa có những hoa văn hình sóng nước, tỏa ra mùi hương thoang thoảng như mùi hoa nhài. Lúc này, trong tâm tôi cảm thấy một nỗi thống khổ mãnh liệt như bị kim châm, nhưng lại đau thấu tim gan! Mưa bắt đầu rơi trong thế giới của tôi, những giọt mưa rơi trên mặt đất thiên quốc, trong chốc lát mọc lên vô số bông hoa màu lam nhạt.
Tôi trông thấy thế giới của tôi nở đầy những bông hoa màu lam nhạt đó.

Bầu trời của lịch sử: Tu luyện Đông Chu Đại Đạo



Tác giả: Thiện Dũng
[ChanhKien.org]
Lời dẫn
Bài viết này do một đồng tu nhờ tôi viết và chỉnh lý, kể lại quá trình tu luyện mà đồng tu đó đã trải qua trong đời trước. Vào thời Trung Quốc cổ đại, người tu luyện phải trải qua rất nhiều gian khổ. Chúng ta, những người tu luyện Đại Pháp của vũ trụ, được Sư tôn từ bi chăm sóc, chỉ trong vòng mấy chục năm tu luyện ngắn ngủi có thể có hi vọng tu thành đạo, so với họ thì chúng ta quả là vô cùng may mắn.
Tu luyện Đông Chu Đại Đạo
Phần thứ nhất
Vào những năm cuối thời Đông Chu, vua quan vô đạo, chư hầu cát cứ, quần hùng tranh giành Trung Nguyên. Thiên tai, nhân họa hoành hành, dân chúng thống khổ, lầm than.
Tôi chuyển sinh vào một gia đình nô lệ ở vùng núi Thái Sơn, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. Khi mới lớn lên, 12 tuổi tôi phải chăn dê cho nhà chủ. Vào mùa hè trong một trận mưa bão, số lượng đàn dê bị thất lạc quá nửa, vì sợ bị đánh phạt nên tôi không dám về nhà chủ nữa. Khi lên núi tìm đàn dê, tôi bị lạc trong rừng sâu, đi bộ ba ngày, vừa đói vừa giá rét, tôi ngã gục dưới một gốc cây cổ thụ. Bỗng tôi nghe thấy một tiếng động lạ trong bụi rậm, ngoảnh đầu lại thấy một con mãnh hổ trắng đang tiến lại gần. Nó chuẩn bị nhe nanh cắn tôi, bỗng nhiên có một người quát: “Lục Nhi, dừng lại”, con hổ trắng ngoan ngoãn chạy về nơi phát ra tiếng nói và nằm phủ phục ở đó.
Một kỳ nhân mặc trang phục kỳ dị từ trong bụi rậm đi ra. Nhìn thấy tôi nằm dưới gốc cây, người đó hỏi: “Cậu bé, tại sao lại ở đây?” Tôi đáp: “Cháu làm mất đàn dê của ông chủ nên phải vào rừng tìm dê, cháu bị lạc trong rừng đã ba ngày rồi”. Vị kỳ nhân búi tóc cao trên đỉnh đầu và cài một cái trâm bằng trúc, ông nói: “Hãy theo ta”. Thế là tôi đi theo ông ấy vào rừng, con hổ trắng cũng đi theo hai người chúng tôi. Đi được nửa ngày, chúng tôi đến một căn nhà cỏ tranh ở giữa rừng, căn nhà có hai phòng. Kỳ nhân lấy nước cho tôi, rồi sắp xếp chỗ ngủ cho tôi. Con hổ trắng đứng ở ngoài cửa không vào trong, nó cứ nhìn tôi tỏ vẻ hiếu kỳ. Một lúc lâu sau, nó vẫn nằm ở cửa và quan sát tôi. Kỳ nhân bước vào trong phòng, rồi hỏi tôi: “Cháu bé, cháu tên gì?” Tôi đáp: “Cháu không có tên”. Kỳ nhân trầm mặc suy nghĩ, ánh mắt lóe lên, nói: “Ta là Thần tiên, con và ta có duyên. Con có thể ở lại đây để tu luyện thành tiên, nếu con không muốn, ta có thể đưa con trở về nhà”. Tôi nghĩ: “Mình làm mất của chủ nhân 74 con dê non, nếu quay về thì thể nào cũng bị chủ nhân trách phạt, sống chết thế nào còn chưa biết, mình quyết sẽ không quay về”. Tôi đứng dậy hành lễ với kỳ nhân, tôi quỳ xuống nói: “Thưa Thần tiên, con quyết không trở về, xin ngài thu nhận con làm đồ đệ, con nguyện đi theo Thần tiên”. Kỳ nhân vuốt râu, mỉm cười nói: “Được, ngày mai ta sẽ thu con làm đồ đệ. Con không phải sợ con hổ này, con hổ này tên là Lục Nhi, nó cũng là Thần thú”. Kỳ nhân vẫy tay với Lục Nhi, con hổ đi vào phòng và bước đến trước mặt ông, ông chỉ tay vào tôi và nói với con hổ rằng: “Đây là đồ đệ của ta, ngươi hãy chăm sóc cho cậu ấy”. Con hổ như hiểu tiếng người, quay người bước đến dựa vào tôi biểu thị sự thân thiết, tôi rất vui mừng, lấy tay vuốt lưng nó, nó cũng dịu dàng dụi đầu vào tôi.
Ngày hôm sau, sư phụ chính thức thu nhận tôi làm đồ đệ, sau khi tôi bái tổ sư của các thời đại, hành đại lễ với sư phụ, sư phụ nói: “Pháp môn tu luyện của chúng ta là pháp môn Vô Cực của Tiên Thiên Đại Đạo. Vũ trụ bản nguyên hỗn độn gọi là vô cực; sau đó sinh ra vân khí gọi là hữu cực; thanh khí (khí tốt) thăng lên, trọc khí (khí xấu) hạ xuống gọi là thái cực, thái cực sinh ra vạn vật… Ta là chưởng môn đời thứ 374 của pháp môn Vô Cực, pháp hiệu là “Tịnh Huyền”, con là đệ tử đời thứ 375, pháp hiệu là “Đạo Minh”, hãy nhớ kỹ!” Sư phụ lấy ra một thanh kiếm màu đen đưa cho tôi và nói: “Kiếm này có tên là ‘Tịch Thiên Kiếm’, có nghĩa là khai thiên tịch địa. Kiếm mà ta sử dụng mang tên ‘Thánh Thiên Kiếm’, có nghĩa là thánh kiếm mà thánh nhân sử dụng để thay trời hành đạo”. Sư phụ nói tiếp: “Pháp môn chúng là pháp môn tính mệnh song tu thượng thừa của Đạo gia. Trước tiên con phải tu luyện ngoại công bổ trợ cho nội lực. Ta sẽ truyền cho con Ngũ Hành quyền”. Sư phụ lấy một viên đan màu đỏ đưa cho tôi uống và nói: “Sau này cứ một tháng uống một viên. Đan dược này ta đã dùng các dược liệu quý của thiên hạ, mất gần 100 năm mới luyện thành, nó có tác dụng thông kinh hoạt lạc, nâng cao tố chất thân thể. Người thường dùng ba viên có thể sống thọ đến trăm tuổi. Sau khi uống vào, tôi cảm thấy bụng ấm nóng, rồi dần dần lan ra khắp tứ chi, không còn cảm thấy buồn ngủ và đói nữa.
Ngày tiếp theo, sư phụ dạy tôi Ngũ Hành quyền. Buổi chiều, Lục Nhi bắt được hai con thỏ rừng, tôi nhặt một ít củi khô, hầm chín thịt thỏ và mời sư phụ cùng ăn, sư phụ nói: “Ta không ăn”. Ông lấy một viên đan dược hòa với nước uống, sau đó vào trong phòng ngồi đả tọa không nói gì. Tôi lại mang một ít thịt ra ăn cùng với Lục Nhi, nhưng nó cũng không ăn, ăn xong tôi đi ngủ. Cứ như thế, tôi luyện quyền và luyện trạm trang hơn 100 ngày, sư phụ lại dạy tôi một số phương pháp đả tọa điều tức. Vài ngày sau, sư phụ dựng một cây cọc gỗ lớn trước nhà cỏ, sau đó gọi tôi đến và nói: “Con cần luyện thông kinh điều tức, không được để bị can nhiễu, cũng không được cử động, nên ta phải trói con lên cây cọc gỗ này để phòng bất trắc. Tôi đặt chân song bàn, lấy vải buộc lại, hai tay kết ấn, thân trên buộc chặt vào cọc gỗ. Sư phụ nói: “Ta đi vào núi sâu tìm thuốc, ba ngày sau sẽ về”, nói xong nhẹ nhàng bay đi. Chỉ còn Lục Nhi ở lại nằm ngủ say bên cạnh.
Cứ cách năm ngày tôi lại phải luyện song bàn thông kinh ba ngày như thế. Lúc đầu không đủ sức duy trì được, sau đó có thể duy trì được, cuối cùng không còn cảm thấy khổ nữa. Ban ngày thì luyện tập ngoại công trạm trang, đến chiều và tối cũng không ngơi nghỉ, lại ngồi đả tọa điều tức, tuy không ngủ nhưng tinh thần lại rất phấn chấn.
Năm thứ hai tôi đã luyện tập thành thục Ngũ Hành quyền, sư phụ lại dạy tôi thương pháp 13 đường.
Năm thứ ba Sư phụ bắt đầu dạy tôi luyện tập kiếm pháp, kiếm pháp này có tên là “Ngự kiếm thuật”, phân thành hai bộ là “Thủ kiếm thuật” và “Thần kiếm thuật”. Thần kiếm thuật tức là dùng thần thông để điều khiển kiếm từ khoảng cách xa diệt trừ yêu quái.
Hàng ngày, ngoài việc dạy ngoại công và điều tức, sư phụ còn giảng pháp lý tu Đạo về vận hành kinh mạch trên thân thể, sự chuyển vận của các ngôi sao, những bí mật về các hành tinh, mối liên hệ giữa thân thể người và tự nhiên, các quan hệ đối ứng giữa chúng; làm thế nào để đồng hóa, thuận theo tự nhiên.
Tám, chín năm sau, tôi luyện ngoại công ngày càng thành thục, pháp lực thần thông cũng dần dần triển hiện.
Một ngày nọ, sư phụ nói: “Con vào núi theo ta tu Đạo đã được gần 10 năm, ngoại công đã bắt đầu có thành tựu, từ hôm nay cần phải trú trọng vào điều tức định lực. Sinh mệnh vạn vật vì Đạo mà sinh, không có Đạo sẽ vong. Nhân pháp địa, trầm trầm bất động, vi địa tiên; nhân pháp thiên, lãng lãng không minh, vi thiên tiên; nhân pháp đạo, nhất thiết tẫn vô, tắc vi thần tiên (Người thuận theo pháp của đất, thâm trầm ổn định, chính là địa tiên, người thuận theo pháp của trời, sáng sủa minh không, chính là thiên tiên, người thuận theo đạo, hết thảy vô vi, thì chính là thần tiên).
Thuận theo định lực tăng trưởng, mỗi lần tôi có thể ngồi đả tọa liền mấy ngày không ăn không uống, thân thể và tinh thần vẫn an định, khỏe khoắn. Một vài năm sau, vào mùa đông, tôi cùng Lục Nhi mang da lông động vật và các loại thảo mộc xuống chợ dưới chân núi để đổi lấy lương thực và dầu. Khi quay về, đi qua một làng ở trên núi, Lục Nhi có biểu hiện bồn chồn khác thường, tôi nghĩ ở làng này chắc chắn có yêu quái. Đi vào làng, tôi được biết gần một năm nay trong làng bị hồ tinh quấy nhiễu, đã có bảy nam thanh niên bị hồ tinh hại chết. Nhớ đạo pháp mà sư phụ dạy phải thay trời hành đạo, diệt trừ tà yêu, duy trì đạo lý của con người, tôi cùng Lục Nhi yên lặng chờ đợi trong núi. Nửa đêm canh ba, từ phía tây nam có một làn yêu khí màu xanh bay vào trong làng, đến trước cửa một ngôi nhà trong làng, làn yêu khí tụ lại thành hình một thiếu phụ, xuyên qua tường đi vào trong nhà. Tôi và Lục Nhi nhanh chóng tiến đến trước cửa và quát lớn: “Yêu nghiệt dám gây họa loạn nhân gian, còn không mau ra chịu chết”. Một lúc sau, nghe thấy tiếng đẩy cửa, một mỹ nhân mặc y phục màu trắng đứng trước cửa, một tay chống nạnh, một tay cầm một cây trùy gỗ, định nói gì đó. Đột nhiên, Lục Nhi gầm lên một tiếng rồi lao lên phía trước, người phụ nữ áo trắng nhìn thấy tình hình bất ổn, quay đầu lập tức hóa thành một làn khí xanh, bỏ chạy về phía tây nam. Tôi rút Tịch Thiên kiếm phóng lên không trung, rồi vận pháp lực điều khiển Tịch Thiên kiếm bay nhanh đuổi theo, tôi nghe thấy trong không trung một tiếng kêu bi thương, lần theo âm thanh, tôi thấy Lục Nhi đang đi quanh con hồ ly lông màu bạc bị thương, liên tục gầm gào. Con hồ ly bị trọng thương chỉ còn thoi thóp. Tôi thu lại Tịch Thiên kiếm, bỏ con hồ ly vào túi, mang về cho sư phụ xử lý.
Sư phụ nhìn nó rồi nói: “Thật tội nghiệp, con yêu hồ ly này đã tu luyện 1300 năm, cũng là linh vật. Chỉ tiếc là không đi theo chính đạo, lại hấp thu tinh huyết của con người, làm hại chết bảy người, gây tội nghiệp”. Sư phụ thở dài, giao cho tôi mang con yêu hồ đã chết này đi chôn phía sau núi. Ngày hôm đó, Lục Nhi hưng phấn lạ thường như được ban cho chức tướng quân vậy, nó lắc đầu vẫy đuôi, đi qua đi lại trước mặt tôi.
Những ngày tháng vô ưu vô lo sống trong núi thấm thoắt lại qua bốn năm nữa. Một hôm, sư phụ gọi tôi vào trong nhà cỏ, thần sắc nghiêm trang nói với tôi: “Đồ nhi, con theo sư phụ tu Đạo đã được 20 năm, đã có một chút thành tựu, đã đến trạng thái bách mạch giai thông. Nếu muốn trường sinh bất tử, tiêu diêu trong vũ trụ thì còn phải đi vân du thế gian, nếm trải đủ mọi nỗi khổ trên thế gian, ma luyện tâm tính, thì mới của thể có thành tựu Đại Đạo”. Tôi hợp thập đáp: “Con xin tuân theo mệnh lệnh của sư phụ”. Sư phụ nói tiếp: “Đi vân du thế gian không thể đi một cách bình thường. Thứ nhất là phải đi xin ăn, không được xin nhiều, mỗi ngày chỉ ăn một bữa; thứ hai là không được thuê nhà trọ, không được ở nhà người thường và đền miếu; thứ ba là thời gian đi vân du là 81 năm. Đồ nhi, con có yêu cầu gì không?” Tôi đáp: “Con không”. Sư phụ nói: “Con về chuẩn bị lên đường đi”. Tôi đáp: “Vâng”.
Thế là tôi bắt đầu 81 năm vân du khổ tu.
Phần thứ hai
Từ biệt ân sư, tôi xuống núi đi vân du. Từ xa xa tôi vẫn có thể nghe thấy tiếng gầm kéo dài của Lục Nhi, phảng phất nhìn thấy hình ảnh của Lục Nhi lưu luyến lúc chia tay.
Ngày thứ hai đi vân du, tôi vào một thôn sơn. Ngôi làng đổ nát thê lương, những người dân bị thổ phỉ cướp hết sạch của cải trong cảnh chiến tranh loạn lạc, xác chết đầy đường. Con người nơi nhân thế làm nhiều việc ác, nghiệp lực luân báo không bao giờ kết thúc. Điều này càng khiến tôi thêm kiên định tu Đạo. Không có gì ăn, tôi đành phải vào rừng tìm quả dại và rau dại ăn tạm. Ăn xong, tôi tìm một nơi kín gió ngồi đả tọa nhập định. Ngày hôm sau, trời đổ mưa, gió lạnh thấu xương, quần áo tôi ướt hết, tôi vẫn bất động, ba ngày sau tôi xuất định tiếp tục lên đường. Thời tiết dần dần trở nên mát mẻ, thu qua đông tới, những ngày mùa đông ở phương bắc lạnh lẽo khác thường, nước đóng thành băng. Từ sáng đến tối, gió tuyết ngày càng mạnh hơn, tôi nhìn xung quanh mờ mịt, không một bóng người, tôi ngồi trong tuyết tu luyện thiền định. Quần áo mỏng manh, phải chịu đựng đói rét. Tôi vận công điều hòa mạch lạc vài lần, rồi tiến nhập vào trạng thái nhập định thâm sâu, trong thân có đạo pháp, cái lạnh không thể cản trở nổi tôi. Mười mấy ngày sau tôi xuất định. Sau nhiều ngày bão tuyết, tuyết đã cao đến ngực tôi, chỉ có đầu ở trên mặt tuyết, sau này may mắn được người có duyên tặng cho cái áo bông, chịu khổ cực đợi đến mùa xuân. Lời ân sư dạy bảo luôn khắc ghi trong tâm tôi, tôi chưa bao giờ gián đoạn việc tập luyện công pháp, ngày qua ngày tiến bộ không ngừng.
Chớp mắt 20 năm vân du nơi nhân thế qua đi như cơn gió thổi. Tôi đi vân du tới cao nguyên Quý Châu, tại đây tôi gặp những người nước ngoài, xin ăn không được bao nhiêu lại còn chịu nhiều lời nhục mạ. Tôi tự nhủ trong tâm rằng: “Ta là người tu Đạo, một nửa là thần, không thể giống như người phàm tục được, nếu ta tranh cãi với họ thì chẳng khác chi người phàm tục, đạo pháp sẽ mất hết”. Nghĩ vậy tôi không để tâm đến họ nữa.
Đến tam phục (thời kì nóng nhất trong năm), tôi ở trong rừng trúc hóng mát. Một cô gái người nước ngoài đi qua mỉm cười hỏi thăm tôi, tôi đứng dậy hành lễ. Trước khi đi, tôi tìm một nơi yên tĩnh, luyện một lượt Ngũ Hành quyền và kiếm pháp, ngồi đả tọa điều tức đến chiều tối, rồi đi vào trong làng xin ăn. Nhìn thấy một ngôi lầu trúc, tôi đến gõ cửa, vừa hay là cô gái người nước ngoài gặp buổi sáng. Nhận ra tôi, cô ấy cho tôi rất nhiều đồ ăn, còn giới thiệu tôi với lão phu nhân và rất nhiều người. Sau khi ăn xong tôi lập tức rời đi, trở lại rừng trúc đả tọa nhập định tu luyện. Buổi trưa hôm sau, cô gái người nước ngoài đến trước mặt tôi, dùng hán ngữ nói với tôi: “Tôi là giáo chủ Thần Nữ giáo, anh có thể ở lại bản giáo làm rể không? Giáo chúng của Thần Nữ giáo của tôi cũng nguyện cung phụng tiên nhân”. Nghe cô gái nói những lời ấy, tôi lập tức nói: “Tôi là người tu đạo khổ tu, phải giới sắc, cảm ơn ý tốt của giáo chủ”. Giáo chủ Thần Nữ vẫn không đi, kiên trì ở lại thuyết phục, tôi không nói gì và cũng không cử động, đột nhiên cô ấy lấy từ trong túi ra một nắm thuốc bột ném lên không trung, tôi vội nín thở, ra tay điểm huyệt vào lưng cô ấy, tôi đứng dậy mang cô ấy về lầu trúc, hành lễ rồi rời đi.
Vì chiến tranh loạn lạc khắp nơi nên thiếu rất nhiều con trai để kế tục hương hỏa, nên tình huống này cũng hay xảy ra.
Người tu luyện phải giữ nghiêm giới luật, bài trừ sắc tâm. Nếu ở lại nhân gian sống cuộc sống của con người thì chính là người thường trong nhân gian, khí huyết khô kiệt thì phải chết, phải luân hồi trong tam giới, ở trong biển khổ vô tận, không thể giải thoát bản thân.
Hoa nở hoa tàn, năm này qua năm khác, mọi thứ đều hóa thành tro bụi. Đạo pháp của tôi ngày một tinh thâm, đã hiểu thấu nhân duyên của vạn sự trên thế gian. Một lần nhập định thâm sâu có thể nhập định vài năm, vài năm ngồi bất động như núi. Thời gian trôi qua như chớp, đông qua hè tới, vân du thế gian đã bình yên qua 20 năm.
Một hôm, tôi đi vân du đến vùng duyên hải Triết Giang. Vùng đất này sản vật phong phú, dân chúng an cư lạc nghiệp, ít xảy ra chiến tranh loạn lạc, trong chợ người người mua bán tấp nập. Tôi nghe thấy tiếng một người phụ nữ kêu khóc. Mọi người bàn tán: “Con của chị ta chơi trên bãi biển, đột nhiên bị một cơn sóng lớn cuốn đi, chị ta vì mong mỏi nhớ con mà trở nên điên điên rồ rồ như vậy”. Người ta lại nói: “Ở bờ biển dạo này có nhiều trẻ con bị bắt cóc, không biết vì sao”. Nghe mọi người nói, tôi nhìn về phía biển, vận dụng pháp nhãn thông trông thấy khí đen đầy trời, thấy một con giao long (là loài lai giữa hải long và giao long ở sông) chuyên ăn thịt trẻ con. Vào lúc nửa đêm, tôi đến bờ biển, dùng thần thông bắt con giao long ra khỏi mặt nước. Con giao long phủ phục dưới mặt đất, tôi hỏi nó: “Tại sao ngươi lại bắt trẻ con ăn thịt? Gây tội họa loạn nhân thế tất sẽ bị trời phạt!” Con giao long khẽ đáp: “Chân nhân có thể không biết đó, ngư dân vùng này gây tổn hại nghiêm trọng cho thủy tộc của tôi, lần này tôi đến đây chính là để đòi nợ”. “Nhân quả có quy luật, thiên lý rõ ràng, ngươi cũng không nên làm như thế. Nếu bắt trẻ con như thế, tất sẽ bị trừng phạt”. Giao long trả lời: “Tôi sẽ làm theo chỉ dạy của chân nhân”. Giao long chầm chậm lặn xuống nước. Ba ngày sau, nó hóa thành một đạo sĩ đi tới bờ sông, nói dối mọi người rằng: “Ba năm hạn hán ở đây là do ngư dân vùng này đã giết hại rất nhiều thủy tộc nên bị trời trách phạt. Phải cúng một đôi đồng nam đồng nữ cho Long vương thì mới có thể thoát tội”…
Tôi tu luyện thiền định trong núi, nhìn thấy con giao long  tính ác không hối cải, liền cầm Tịch Thiên kiếm định truy sát nó. Nhưng nhớ tới lời ân sư từng nói: “Yêu tà gây họa loạn nhân thế thì phải giết. Nhưng đối với long tộc thì khác, phải giao cho Thiên đình xử lý, vì đa phần chúng được Thần bảo hộ”. Tôi bèn dùng pháp lực bắt lấy nó, giao cho thiên thần trên Thiên đình thẩm tra xử lý. Nhờ vậy mà Thiên đình biết rõ căn nguyên và cử thiên nhân hỗ trợ.
Vài chục năm sau, tôi vẫn chuyên cần tu Đạo, Đạo pháp phát triển không ngừng. Có người ở Sắc Giới Thiên đến cầu pháp, tôi đã giảng Đạo pháp cho chúng tiên ở Sắc Giới Thiên một thời gian. Lại có rất nhiều thiên nhân đến cầu pháp, đáp ứng không xuể. Chúng tiên có ý muốn tôi lưu lại ở Thiên cung cùng chúng tiên hưởng thiên phúc. Tôi nghĩ trong tâm rằng Sắc Giới Thiên vẫn ở trong tam giới, vẫn phải nhập lục đạo luân hồi, không phải là vĩnh cửu, chỉ là tạm hưởng thiên phúc, khi thiên phúc hưởng hết thì vẫn phải xuống địa ngục, cũng không thể vĩnh viễn bất tử, vẫn nên rời đi. Tôi từ biệt chúng tiên trở về nhân thế, tiếp tục đi vân du khổ tu. Năm này qua năm khác, thời gian như thoi đưa, tính ra đi vân du cũng đã nhiều năm, cũng sắp đến thời hạn mà ân sư định ra rồi. Tôi lại đi vân du đến Hoa Sơn, tìm một động tiên để nhập định thâm sâu. Trong định, thân và tâm của tôi đều biến mất, tất cả mọi thứ hữu hình, vô hình trên thế giới đều biến thành hỗn độn, chỉ còn là hỗn độn vô tận.
Mấy năm sau, đã đến thời hạn, tôi xuất định chuẩn bị trở về theo ý lệnh của sư phụ. Bỗng nhiên nghe thấy ngoài động có tiếng của sư phụ: “Đồ nhi, sư phụ đến rồi”. Tôi vội ra ngoài động hành lễ với sư phụ. Sư phụ nói: “Đồ nhi, con đã vất vả rồi. Vô Cực pháp môn của chúng ta là tu luyện Đại Đạo. Tổ sư di huấn rằng: thế gian mỗi 800 năm mới xuất hiện một người đại đức có thể truyền thừa pháp môn đạo pháp của ta, cần phải khổ tu trăm năm mới có thể thành đạo. Tương lai, đệ tử của con 800 năm sau sẽ giáng sinh ở Hoa Sơn, hãy nhớ kỹ! Thời hạn ta định đã đến”. Nói xong sư phụ đơn thủ lập chưởng hành lễ với tôi nói: “Chúc mừng chân nhân thành đạo”. Trong nháy mắt, tôi cảm giác mình biết được mọi điều về quá khứ và tương lai, lên trời xuống đất không nơi nào không thể đi… Đây thực sự là đắc đạo rồi. Tôi thấy trên không trung mây trắng bồng bềnh, hương thơm lan tỏa khắp nơi, những cảnh tượng kỳ diệu chốn thần tiên hiện rõ ràng trước mắt. Có câu thơ rằng:
Chứng quả thánh nhân
Khán thế gian phong khởi vân dũng, tuế nguyệt thương tang,
Ngộ thiên cơ thần hành tự tại, vạn cổ trường tồn.
Tạm dịch:
Nhìn thế gian gió mưa vần vũ, trải qua năm tháng tang thương
Ngộ ra thiên cơ, tự tại trên con đường thành Thần, vạn cổ trường tồn.

Câu chuyện luân hồi: Chết trong sơn động thấy chân tướng, tu luyện chính Pháp phá cõi mê



Bài viết của đệ tử Đại Pháp tại Trung Quốc đại lục
[ChanhKien.org] Mùa hè năm 2014, khi đang đọc đến phần “Tịch cốc” trong cuốn sách “Chuyển Pháp Luân”, tôi nhìn thấy một cảnh tượng như sau: Tôi từng là một người tu đạo tu hành trong sơn động, sau đó chết trong sơn động. Về sau mỗi khi đọc đến phần này, tôi lại lần lượt nhìn thấy những tình tiết khác nhau, nhìn thấy một số cảnh tượng trên thiên thượng, nhìn thấy sư phụ đạo gia đưa một người giống tôi đi, còn một tôi khác thì chuyển sinh.
Tu luyện trước đây trong lịch sử, người ta đều tu luyện phó nguyên thần, Sư tôn trong khi giảng Pháp đã giảng rõ cho chúng ta điều này.
Trong “Đại viên mãn Pháp”, Sư tôn giảng:
Các công pháp khác vốn được truyền nơi người thường hàng nghìn vạn năm nay đều là tu phó ý thức; nhục thể và chủ ý thức của người tu luyện chỉ có tác dụng làm tải thể. Khi viên mãn phó ý thức sẽ tu lên trên, nó mang theo công mà rời đi; chủ ý thức và bản thể của người tu luyện sẽ không còn gì cả, công một đời tu luyện vậy là bỏ hết. Tất nhiên [trong Pháp Luân Đại Pháp] khi tu luyện chủ ý thức, thì phó ý thức cũng đắc một phần công, nó tự nhiên sẽ đề cao lên theo.
Trong “Chuyển Pháp Luân”, Sư tôn giảng:
Theo Phật giáo giảng, họ vẫn phải nhập lục đạo [luân hồi]. Bởi vì trong thân của họ đã tu xuất một Đại Giác Giả, nên họ đã tích được đại đức, vậy sẽ sao đây? Có thể vào đời tiếp họ sẽ làm quan lớn, phát tài lớn. Cũng chỉ có thể như vậy thôi, đó chẳng phải tu mà như không ư?
Tôi viết lại câu chuyện tu luyện mà mình đã nhìn thấy, hi vọng mọi người thông qua câu chuyện này biết được chỗ mê trong tu luyện trước đây, cũng hi vọng các đồng tu xem xong câu chuyện này sẽ càng thêm tinh tấn hơn.
Trong một tiền kiếp, tôi là một công tử con nhà quyền quý tên là Bạc Liên Sinh, từ nhỏ tôi rất chăm chỉ đọc sách, ước mơ sau này lưu danh thiên hạ. Năm tôi 15 tuổi, một buổi trưa, có một vị đạo trưởng râu tóc bạc phơ, mặt mũi hồng hào bước vào thư phòng tôi, nhìn thấy tôi, ông nói: “Căn cốt không tệ”. Tôi kinh ngạc nhìn ông, cảm thấy kỳ lạ không hiểu sao ông có thể vào được phòng mà không mở cửa hay phá tường. Đạo trưởng nói: “Ngươi dụng tâm đọc sách thật là vất vả, ta có pháp môn kỳ diệu muốn truyền thụ cho ngươi, có thể giúp ngươi trường sinh bất lão, thoát khỏi bể khổ nơi nhân gian, ung dung tự tại”. Tôi lắc đầu nói: “Sinh mệnh tôi là do phụ mẫu ban cho, sao tôi có thể rời xa phụ mẫu được, tôi phải mang vinh quang về cho gia đình để báo đáp ơn dưỡng dục của phụ mẫu”. Đạo trưởng cười nói: “Theo ta tu hành, đắc đại tự tại, trở về báo đáp phụ mẫu, cũng giống như vậy thôi”. Tôi vẫn liên tục lắc đầu, đạo trưởng nói: “Cái lý cổ hủ này đã nhồi nhét vào đầu đệ tử của ta, khiến cậu ấy mắt mù tai điếc, ta đã quyết định thu ngươi làm đệ tử, ngươi có phản đối cũng không được”.
Đạo trưởng tiến đến nắm lấy cánh tay tôi, đập một cái vào đầu tôi, tôi liền cảm thấy đầu óc quay cuồng, giống như một trận mây đen vần vũ, bên tai nghe tiếng gió vù vù, hai mắt lại bị gió thổi đến nỗi không mở ra được. Một lúc sau, tôi có cảm giác chân chạm đất, tôi mở mắt ra nhìn thấy mình đang ở trong một cái động rất sạch sẽ, bỗng thấy trên mặt đất có một đồ hình thái cực rất lớn, bên trong có thứ gì đó đang chuyển động, một năng lượng kỳ lạ, vô hình thu hút tôi, tôi nhìn nó không chớp mắt. Đạo trưởng nói: “Đồ đệ ngoan, cứ xem đi, ta đi làm chút việc”. Đạo trưởng quay người đi, tôi nhìn một lúc cảm thấy bụng đã đói, nhìn trên bàn đá có quả rừng, liền cầm lên ăn, thấy khát liền lấy nước trong hồ lô uống, sau đó lại nhìn cái đồ hình, càng xem càng cảm thấy trong tâm tĩnh lặng, không nghĩ gì nữa, có lúc cảm thấy trong đầu có thứ gì đang chuyển động, xem một lúc thấy buồn ngủ, liền ngủ trên cái giường gỗ ở trong động, sự việc này cứ lặp đi lặp lại, cũng không biết là bao lâu nữa.
Một hôm, tôi đột nhiên nhớ đến phụ mẫu, trong tâm cảm thấy náo động, tôi muốn về nhà, liền thử tìm cửa ra khỏi động, đi một vòng vẫn không tìm thấy cửa ra, trong lòng nôn nóng. Lúc này có một giọng nói nói với tôi: “Hãy tu hành cho tốt, đừng nhớ nhà nữa”. Tôi thấy trong động chỉ có mình mình, giọng nói đó từ đâu đến vậy, dường như từ trong đầu tôi phát ra, tôi ngẩng đầu nhìn xung quanh không thấy gì, cảm thấy buồn. Tôi lại đi vào trong động tìm đường ra, vẫn không tìm thấy, tôi mệt nằm lên giường ngủ mất.
Tôi nhìn thấy tôi, tinh thần phấn chấn, chân chạy như bay về nhà, đến cửa nhà thì bị chặn lại, lính gác cửa nói: “Đạo đồng này ở đâu đến? Không được vào”. Tôi nhìn lại thì thấy mình đang mặc áo đạo đồng, tôi nói: “Ta là công tử”. Lính gác cười nói: “Ngươi xem xem, công tử đến kia kìa”. Tôi nhìn thấy một công tử trong nhà đi ra, trông rất giống tôi, mặc áo dài gấm. Tôi ngẩn người ra, tên gác cửa đẩy tôi ra, tôi ngã sóng soài trên đất.
Lúc này tôi nghe thấy bên tai có tiếng gọi: “Mau tỉnh dậy đi, đừng ngủ nữa”. Tôi vừa mở mắt thì trông thấy đạo trưởng, tôi nắm lấy tay ông ấy nói: “Con muốn về nhà”. Đạo trưởng nói: “Chẳng phải con vừa về nhà đó sao, bị lính gác đuổi đi, lại còn ngã đau, về nhà thì có gì hay chứ?”, tôi hơi chút đau lòng, đạo trưởng nói: “Sao con còn mê muội vậy, người khác muốn bái ta làm sư, ta đều không quan tâm. Ta thấy con căn cơ tốt mới thu nhận con. Thế này đi, ta mang đồ ăn con thích đến, để trên bàn đó, con ăn hết rồi ta sẽ đưa con về nhà”. Tôi nghe xong rất vui, chạy đến bàn đá, thấy đầy đồ ăn thịnh soạn, tôi cầm đũa lên bắt đầu ăn, nhưng đồ ăn đưa vào miệng đột nhiên trở nên rất khó ăn, tôi không ăn nổi đành dừng lại nhìn đạo trưởng.
Đạo trưởng cười ha hả nói: “Con ở trong động tu hành đã hai tháng rồi, những thứ mà con được ăn và uống thì quan chức quyền quý đều không được ăn, thân thể con biến hóa rất nhiều rồi, nếu không tin, con hãy cùng ta đi ra ngoài, xem xem năng lực của con thế nào”. Tôi bán tín bán nghi theo đạo trưởng ra ngoài sơn động, đạo trưởng chỉ một cái cây đại thụ cao hơn 20 mét nói: “Con hãy bay lên hái quả trên cây kia xuống đây”.  Tôi vừa rướn người lên thì phát hiện cơ thể mình rất nhẹ nhàng, tôi bay lên cây hái quả rồi lại bay xuống. Đạo trưởng lại nói: “Phía kia có nước suối, con hãy dẫn nước đến đây”, đạo trưởng bảo tôi cách làm, tôi làm theo cách ông ấy nói, tay chỉ vào một khe nước suối ở xa, liền nhìn thấy dòng nước suối từ xa bay đến, tạo nên một đường nước, đạo trưởng đưa cái hồ lô ra, nước suối liền chảy vào hồ lô, điều khiến tôi kinh ngạc là hồ lô đựng được rất nhiều nước. Đạo trưởng nói: “Được rồi”, tôi dừng tay lại. Đạo trưởng đặt hồ lô xuống đất, lại tiện tay nhặt mấy hòn sỏi, nắm tay lại, chuyển động hai vòng, ý bảo tôi đưa tay nhận lấy, tôi giơ tay ra nhận được mấy quả trứng gà vẫn còn âm ấm, tôi vô cùng kinh ngạc. Đạo trưởng nói: “Đây chỉ là chút tiểu năng tiểu thuật, không là gì cả, con bái ta làm thầy, ta sẽ truyền cho con Đại Đạo, có thể sánh với Thần tiên, đắc đại tự tại”.
Tôi nghĩ rồi quỳ xuống đất nói: “Đồ đệ nguyện bái ngài làm thầy, nhưng lại nhớ thương phụ mẫu, xin thầy khai thị”. Đạo trưởng nghe xong cười lớn, thuận tay vẽ một vòng trên không trung nói: “Con hãy tự mình xem đi”. Tôi thấy trong vòng tròn có làn sương mù, sương mù tan ra, xuất hiện nhà của tôi, tôi thấy tôi lấy vợ, sinh con. Sau đó phụ thân tôi cưới một người làm thiếp, thiếp sinh được một con trai. Hơn 10 năm sau tôi mắc bệnh, nằm liệt giường, thiếp của cha bỏ độc vào thức ăn của tôi, tôi chết. Bà ấy lại bỏ độc vào đồ ăn của mẹ tôi, mẹ tôi qua đời, thiếp trở thành nữ chủ nhân, vợ tôi bị đuổi về nhà mẹ đẻ, thiếp của cha ngược đãi con trai tôi, con trai tôi mắc bệnh lao phổi mà chết.
Cảnh tượng đến đó là hết, đạo trưởng nói: “Một đời người như vậy có gì thú vị chăng?”. Tôi không nói được gì, đạo trưởng mở nắp hồ lô dốc xuống, treo trên cành cây nói: “Giờ nước trong hồ lô còn nóng, con tắm xong hãy bái ta làm thầy”, tôi tắm nước nóng rất thoải mái, rồi mặc bộ y phục của Đạo gia.
Tôi khấu bái đạo trưởng, gọi ông là “sư phụ”, đạo trưởng nâng tôi dậy nói: “Cuộc đời sau này của con ta đã an bài lại cho con rồi, con không được lại nghĩ linh tinh nữa. Ta dùng viên ngọc con đeo diễn hóa ra một con khác, nửa năm sau nó sẽ sinh bệnh mà chết, cha mẹ con nợ thiếp của cha con một mạng nên phải hoàn nghiệp”. Tôi cảm tạ sư phụ đã điểm hóa, rồi theo sư phụ trở vào động tu hành.
Sư phụ bảo tôi ngồi song bàn, trói tay tôi lại phía sau lưng, chân cũng trói lên. Tôi nói: “Sư phụ không cần trói đâu ạ”. Sư phụ cười nói: “Con luyện công cho tốt, ta đi một lát”. Sư phụ đi rồi, tôi theo tâm pháp sư phụ truyền thụ mà luyện công, lúc đầu rất thoải mái, dần dần chân cảm thấy hơi đau, càng ngày càng đau, muốn bỏ chân ra nhưng tay không thể cử động được, tôi đau đến nỗi toàn thân vã mồ hôi, xương như gãy ra, tôi động bên này bên kia, rời khỏi cái nệm. Ý thức tôi hơi mơ hồ, cảm giác đau đớn lại càng thêm chân thực, giống như dao róc vào thịt, sau đó lại cạo vào xương tôi, tôi đau đến nỗi cắn rách cả môi, không chịu nổi ngất đi.
Cũng không biết bao lâu, tôi nghe thấy tiếng sư phụ: “Sao con lười nhác vậy, sao không luyện công cho tốt?” Tôi không dám trả lời. Sư phụ nói: “Mắc bệnh, bị đổ thuốc độc còn khổ hơn thế này, vừa muốn ung dung tự tại lại muốn thành Thần, sao có thể như vậy được?” Sư phụ nâng tôi ngồi dậy, bảo tôi mở miệng ra, sư phụ cho một viên đan dược vào miệng tôi, dạy tôi hai câu khẩu quyết, rồi sư phụ lại đi.
Thoải mái được một lúc, rồi cơn đau lại quay trở lại, khiến tôi khó mà chịu nổi, tôi động đậy thế nào dây thừng cũng không mở, tôi đau đến nỗi lại ngất đi. Sự việc như vậy diễn ra vài lần, một hôm sư phụ nóng mắt cầm roi lên vụt tôi, vừa đánh vừa nói: “Nếu con không chịu nổi cái khổ này thì hãy mau về nhà đi, ta làm gì có đệ tử như con, sư phụ vừa đi khỏi là con lăn ra ngủ”. Tôi bị đánh đến nỗi máu thịt nhầy nhụa, sư phụ vẫn hỏa khí ngùn ngụt, tôi cảm thấy áy náy trong lòng, không nhịn nổi khóc òa lên, sư phụ càng tức giận, sư phụ cởi dây trói cho tôi nói: “Khóc cái gì? Ta không cần con nữa, con mau chóng về đi, về lấy vợ đẹp đi, dù cho phải uống thuốc độc mà chết cũng không phải hàng ngày chịu cái khổ này”.
Tôi nước mắt lưng tròng quỳ trước mặt sư phụ nói: “Sư phụ, con sai rồi, dù thầy có đánh chết con, con cũng không trở về, xin sư phụ bớt giận”. Tôi liên tục dập đầu, sư phụ nói: “Con ngẩng đầu lên đi”, Tôi ngẩng đầu lên nhìn sư phụ, sư phụ nhìn tôi nói: “Con sinh ra ở gia đình quyền quý, không chịu được khổ, thôi hãy về nhà đi”. Sư phụ cởi dây ra, đặt sang một bên, chán ngán thất vọng nói: “Ta phải đi giải nỗi sầu này thôi, thu nhận một đệ tử không như ý thật tức chết đi được”. Sư phụ đi rồi, cái tâm tu đạo của tôi lại càng kiên định, tôi lấy dây thừng, lại nhặt thêm vài hòn đá, đặt đá xung quanh đệm ngồi, đặt chân song bàn, dùng dây buộc lại, thề rằng: “Xin Thần linh gia trì cho con, con nhất định không được ngủ mất”.
Ngồi song bàn được một lúc là lại đau rất khó chịu, nhưng dù đau thế nào tôi vẫn bất động, nhẫn qua được một trận, lại thoải mái, một lúc sau lại đau dữ dội. Lúc này tôi nghe thấy có tiếng phụ nữ: “Sư huynh có nhà không? Ta đến rồi”. Lời chưa dứt, một đạo cô tay cầm phất trần xuất hiện. Cô ta nhìn tôi nói: “Cậu chính là đệ tử mà sư huynh ta thu nhận à, một đệ tử rất tốt, vậy mà bị sư huynh của ta hành hạ đến nông nỗi này, cậu dứt khoát phải bái ta làm thầy, ta sẽ dạy cậu”. Nói xong cô ta lấy ra một cái hồ lô, uống một ngụm nước, sau đó phồng miệng nhổ một hơi vào người tôi, tôi cảm thấy thân thể vô cùng thoải mái, phát hiện chỗ đau do bị roi đánh không còn nữa, chân cũng không đau nữa. Đạo cô nói: “Sư huynh tính khí nóng nảy, ngược đãi đệ tử, chi bằng cậu bái ta làm thầy, đi với ta vui vẻ thoải mái vừa có thể học được rất nhiều những thứ thuật loại, lại không phải chịu khổ”. Tôi nói: “Một ngày làm thầy, cả đời làm cha. Ta không thể phản bội sư phụ”, đạo cô giận tím mặt nói: “Ta sẽ phá vỡ động phủ, ném ngươi vào đầm sâu, cho cá ăn thịt ngươi”. Tôi nói: “Cô làm vậy thì không phải người tu đạo”. Đạo cô vừa tức giận bỏ đi, sư phụ lập tức xuất hiện, sư phụ nhìn tôi nói: “Đệ tử tốt, sư phụ không nhìn nhầm con”.
Từ đó về sau, những ngày tháng đau đớn đó cũng dần qua đi, sư phụ đối xử với tôi rất hòa ái, thường kể cho tôi nghe những câu chuyện đạo thuật, Thần tiên, dạy tôi luyện các thứ thuật loại, ông còn nhắc đi nhắc lại: “Nội dung quan trọng của môn pháp chúng ta là thức thần tử, nguyên thần sinh, thức thần khiến con người mê mờ, sinh ra các loại dục vọng, ham muốn, phải ức chế thức thần, khiến nó không phát huy tác dụng, nguyên thần mới được đại tự tại”. Năm năm sau, một hôm sư phụ mang ra một cuộn sách gấm, nói với tôi: “Ta sẽ giao bộ bí kíp này cho con, 20 ngày sau con sẽ vào núi tu hành, bây giờ con xuống núi đi”.
Tạm biệt sư phụ, tôi xuống núi chuẩn bị một số thứ, trên đường đi gặp một người tu hành, ông ấy nói với tôi: “Thứ mà đạo hữu đang mang vô cùng trân quý, rực rỡ ánh quang, có thiên quan đi cùng. Nhưng cách đây không xa có lạn quỷ đến đòi nợ, mắng chửi, đạo hữu tu hành cũng không dễ dàng gì”. Tôi nói: “Tu hành sao có thể thoải mái được, tôi quyết tâm tu hành, có sư phụ bảo hộ, vứt bỏ tạp niệm, nhất tâm tu hành”. Người tu hành nói: “Hai bên bờ Tam Hiệp của sông Trường Giang có rất nhiều sơn động, đây là nơi rất tốt để tu hành, cậu mau đến đó đi”. Tôi cảm tạ người tu hành, đi được mấy bước, vô tình quay đầu nhìn lại thì không thấy người tu hành đâu nữa, trong tâm nghĩ: “Chắc là Thần linh trong bộ bí kíp đã điểm hóa cho mình phải tu hành ở đó”.
Còn ba ngày nữa mới đến ngày hẹn với Sư phụ, nhưng tôi cảm thấy thời gian đã chín muồi rồi. Tôi đột nhiên muốn về thăm nhà, tôi về đến quê nhà, mặc một bộ quần áo rách rưới, đến trước cửa nhà thì nghe gia nhân nói: “Nhị thái thái và tiểu công tử đến”. Tôi nghe nói liền quay đầu bỏ đi, ngôi nhà này đã không còn bất cứ lưu luyến nào đối với tôi nữa. Khi quay đầu đi, tôi nhìn thấy một bé gái bốn tuổi nhà hàng xóm chạy đến, người hàng xóm không nhận ra tôi, nhưng cô bé kia nhìn thấy tôi thì bỗng cười, nụ cười vô cùng thuần khiết, tâm tôi đột nhiên xao động.
Tôi dùng thần hành thuật đi đến Tam Hiệp, tìm một sơn động, dùng công năng đóng cửa động lại, bắt đầu tu hành. Trước khi đả tọa tu hành, tôi đã thề: “Tôi quyết chí ngồi trong động này tu hành, nếu không tu thành thề không đứng dậy, nếu phá vỡ lời thề sẽ bị sấm đánh chết”.
Trong quá trình tu hành, liên tục xuất hiện những cảnh tượng can nhiễu, có lúc nhìn thấy phụ mẫu kêu khóc, tôi bất động tâm; có lúc tai nghe thấy cửa sơn động bị mãnh hổ cào bới, phì phò bực tức, tâm vẫn bất động; có lúc thấy rồng bay vào động, ngồi lên người tôi, tôi vẫn bất động; có lúc thấy thiên nữ mang đồ ăn đến đặt vào động, tâm vẫn bất động; có lúc thấy quan sai địa ngục đến nói: ‘Mời ông đến minh phủ, tên của ông đã ở trong sách tử rồi, sao ông lại còn đến đây tu hành’, tôi vẫn không động. Thiên địa nhân thần quỷ súc … xuất hiện trước mắt, tôi không mê mờ và không đứng dậy, tai nghe thấy một loạt âm thanh như vỡ ra, tôi vẫn không mở mắt. Niềm vui trong tu luyện cũng có lúc thể hiện ra, tôi thấy tôi vân du nơi chân trời với tốc độ bay nhanh không thể tưởng tượng, sông núi, đất trời lần lượt hiện ra trước mắt. Trong thoáng chốc tôi cảm thấy thân thể to lớn cự đại, chứa cả núi cao sông rộng.
Một hôm, trước mắt tôi đột nhiên xuất hiện một cô gái, cô ấy nói với tôi: “Tôi là cô gái nhà hàng xóm đã gặp ngài lần trước, từng có duyên với ngài, tuổi vừa 16, tôi mong muốn tu hành, muốn bái ngài làm thầy.” Tôi không nói lời nào, cô gái nói: “Từ nhỏ tôi đã có thể nhìn thấy rất nhiều sự việc kỳ lạ, không lưu luyến thế tục, vẫn luôn có cao nhân chỉ bảo tôi tu hành. Sau đó cao nhân giúp tôi tìm được ngài, tôi muốn tu luyện, thỉnh cầu ngài chỉ dạy”. Tôi như không nghe thấy gì, vẫn bất động.
Cô gái này ngày nào cũng đến, đợi một canh giờ, có lúc im lặng không nói, có lúc líu lo nói chuyện, tâm tôi vẫn bất động. Hôm nay cô gái lại đến, không nói lời nào, ngồi xuống bên cạnh đả tọa, mệt thì lại dựa vào động, ban đêm thì nằm nghiêng mà ngủ, không nói một lời. Tôi tu hành đã nhiều năm, nhìn thấu nhân duyên thế sự, riêng việc này lại không thể hiểu nổi. Nhìn cô gái đó có máu có thịt, không phải thứ ma quỷ ngoại tà, tâm tôi rất kinh ngạc.
Một hôm, cô gái đó quỳ trước mặt tôi nói: “Tôi nhất tâm tu hành, nếu sư phụ không nhận tôi, tôi sẽ quỳ ở đây không đứng dậy, dù cho chỉ còn bộ xương khô cũng thề không đứng dậy”. Cô gái quỳ ở đó rất lâu, nhẫn chịu thống khổ. Tôi nhắm mắt đả tọa nhưng lại có thể nhìn thấy làn da cô gái đang nổi những nếp nhăn. Tôi quyết tâm coi đây là ma huyễn, không động tâm.
Một hôm, cô gái nói với tôi: “Ngày xưa Khương Tử Nha kiếp trước từng là một con gấu bay, muốn bái Nguyên Thủy Thiên Tôn làm thầy, Nguyên Thủy Thiên Tôn thấy động vật thì không cho phép tu luyện, từ chối thu nhận gấu bay. Con gấu bay đó ý chí kiên định, quỳ lạy ở đó bất động. Nguyên Thủy Thiên Tôn nằm trên giường ngủ một giấc, lúc tỉnh dậy đã 800 năm trôi qua, thân thể gấu bay trên mặt đất đã hóa thành tro bụi không dấu vết, chỉ có một nguyên thần vẫn cuộn tròn trên mặt đất. Nguyên Thủy Thiên Tôn cảm động nói: “Ngươi hãy chuyển sinh thành người đến bái thầy, ta nhất định sẽ nhận ngươi” bây giờ tôi là thân người muốn tu luyện, sư phụ duyên cớ gì không nhận tôi? Tôi chết rồi, nếu kiếp sau chuyển sinh thành đá thì lỡ mất cơ duyên tu luyện, đây chẳng phải là lỗi của ngài hay sao?”
Lời cô ấy khiến tôi suy nghĩ: “Cô ấy nói có lý, nhưng nếu ma quỷ lợi dụng cô ấy để mê hoặc ta, nếu ta đứng dậy thì sẽ chết trong động, ta hãy thận trọng.”
Tôi vẫn ngồi đả tọa, trước mắt lại xuất hiện nụ cười thuần khiết của bé gái nhỏ và hình ảnh cô thiếu nữ đang tiến đến cái chết, tôi nghĩ: “Làm thế nào đây?” Tôi do dự mấy ngày, việc đả tọa đã bị can nhiễu nghiêm trọng, đột nhiên một giọng nói dội vào đầu tôi: “Nửa tháng sau hãy quyết định”. Giọng nói đó rất mạnh mẽ, tâm tôi định lại được, hình ảnh cô gái trước mắt biến mất.
Rất nhanh đã đến thời gian nửa tháng, trước mắt tôi xuất hiện một dòng chữ vàng: “Ngày tu thành, lúc thân thể chết”. Tôi không cảm thấy ngạc nhiên, vì tu thành rồi phải vứt bỏ cái thân thể này. Trước mắt tôi xuất hiện một xa giá, tôi nhìn thấy hạc tiên, nhìn thấy thiên quan, trong rất nhiều thiên quan thình lình có một người, chính là cô thiếu nữ trong động.
Tôi vô cùng kinh ngạc, trong đầu xuất hiện một giọng nói: “Mau mở mắt ra xem cô gái đang quỳ, hãy cứu cô ấy, ngươi có con đường của ngươi”. Tôi mở mắt nhìn thấy cô gái đó vẫn quỳ như cũ và đang hấp hối. Bởi sự thúc giục của suy nghĩ kia, tôi không nghĩ ngợi gì nữa, đột nhiên ngồi dậy.
Trong phút chốc khi tôi ngồi dậy, tôi nhìn thấy Thần tiên đầy trời, họ đều đang nhìn tôi, giống như đang chờ đợi thời khắc này. Một vị Thần tiên tay mở ra lời thệ ước của tôi khi vào sơn động, một vị Thần khác tay phóng một chùm sấm sét về phía tôi. Tôi lập tức bị sét đánh chết trong động, tôi cảm thấy tôi xuất ra từ trong thân thể mình, dừng lại trong không trung, thân thể nhẹ nhàng.
Tôi nhìn thấy thân thể đầy máu của mình ở trong động, nhìn thấy cô thiếu nữ kia kỳ thực là một tảng đá đen trên thiên thượng chuyển sinh thành, tảng đá đó có tên là Khởi Tọa thạch. Từ khi tôi bắt đầu tu luyện, Khởi Tọa thạch liền chuyển sinh, mục đích cuối cùng của nó là muốn dụ tôi rời khỏi chỗ, hoàn thành sứ mệnh mà Thần tiên trên thượng giới trao cho nó.
Điều khiến tôi buồn nhất là tôi trông thấy một tôi khác trông giống hệt như tôi, vẻ mặt hưng phấn, tôi nhìn thấy trên thân anh ta mang theo rất nhiều thứ công năng và thuật loại tu luyện được, bởi vì khi đả tọa tôi nhìn thấy tôi khi rời thân thể từng sử dụng những thứ công năng và thuật loại này. Tôi nhìn thấy sư phụ, nhìn thấy người mà tôi đã bái làm sư, sư phụ đưa anh ta đi trên loan giá, trong tâm tôi vô cùng buồn bã.
Một vị Thần tiên nói với tôi: “Ngươi lập tức chuyển sinh đi, kiếp sau sẽ được hưởng vinh hoa phú quý”, tôi hỏi: “Tôi tu luyện không phải vì vinh hoa, tại sao sư phụ lại không đưa tôi đi? Người sư phụ đưa đi là ai?” Các vị Thần tiên đều không nói gì. Một vị Thần tiên nói: “Ngươi mau chuyển sinh đi, đừng để lỡ thời gian”. Khi tôi bị một vị Thần tiên trong số đó dẫn đi, tôi nghe thấy một vị khác nói: “Điều này không công bằng cho lắm”, một vị Thần tiên khác nói: “Đều làm vậy cả mà, đều đã định rồi, không thể để sơ suất được. Người tu luyện này có nhìn thấy cũng không hiểu là chuyện gì, một khi đầu não bị tẩy rửa thì sẽ quên hết”.
Nghe họ nói chuyện, tôi đột nhiên cảm giác một sự thương tâm và cay đắng không lời nào tả xiết, tôi nhớ lại quá trình tu luyện của mình, thật khó khăn, vất vả, kết quả lại rơi vào chuyển sinh, quả là một sự vô vọng, thậm chí là tuyệt vọng. Vào thời khắc đó, tôi nghĩ đến rất nhiều sự việc, tư duy của tôi trở nên linh hoạt, phóng khoáng lạ thường, tôi liên kết một số sự việc lại với nhau, trong tâm có rất nhiều suy đoán, tôi cũng cảm thấy suy đoán của mình hợp lý.
Tôi nghĩ đến trước khi bái sư, giọng nói mà tôi nghe được: “Hãy tu hành cho tốt, đừng nhớ nhà nữa” và giọng nói trước khi tôi chết: “Mau mở mắt ra xem cô gái đang quỳ kia, hãy cứu cô ấy, ngươi có con đường của ngươi”, hai giọng nói này là của cùng một người nói, những ý nghĩ và giọng nói xuất hiện vào lúc then chốt đều phát ra từ chỗ tôi, lẽ nào chúng phát ra từ một tôi khác, hắn ta đang thao túng tư tưởng của tôi, không chế thân thể của tôi?”
Tôi nghĩ: “Tôi khó khăn, vất vả tu hành, lại bị rơi vào chuyển sinh, một sinh mệnh khác lại đắc chính quả, anh ta là ai? Có phải sinh mệnh kia đã mượn thân thể tôi để tu luyện không? Lại có chuyện như vậy sao? Sư phụ nói đã thay đổi cuộc đời của tôi, nhưng thực sự lại thay đổi cuộc đời của một sinh mệnh khác, bởi vì tôi vẫn phải nhập luân hồi mà. Sư phụ nói đã an bài con đường tu luyện cho tôi, có phải việc tu luyện của tôi đã chủ định là được an bài như thế này: tôi nhất định sẽ thề, tôi nhất định sẽ chết trong động, ngay cả hòn đá kia cũng đã được an bài từ trước rồi, hết thảy đều đã định xong rồi, tôi chỉ làm theo hết thảy những an bài này, người được hưởng lợi lại là người khác, sự an bài này chẳng phải quá vô tình sao? Chẳng phải tôi đã bị lợi dụng sao?”.
Những suy đoán của tôi không ai có thể khẳng định, những nghi vấn của tôi không có ai trả lời, tôi rất nhanh chóng chuyển sinh.
Từ khi biết về câu chuyện này đến nay đã hơn ba năm, tôi vẫn trì hoãn không muốn viết bài viết này, dù đã viết rồi, mà khi viết đến đoạn qua đời trong động, tôi cũng phải dừng bút rất lâu, trong tâm rất bi thương, không muốn viết tiếp, cố gắng mãi cuối cùng cũng viết xong. Tôi nghĩ: “Mình đang trốn tránh, không muốn khuấy động nỗi đau trong ký ức, không muốn đối diện với nỗi thống khổ và bất lực lúc đó”.
Một số ký ức về tu luyện trong tiền kiếp đều có thể hiện trong kiếp này. Còn nhớ sau khi tu Đại Pháp, đọc “Pháp Luân Đại Pháp nghĩa giải”, Sư tôn giảng:
Đạo gia dẫn dắt đồ đệ chỉ dẫn một người hai người, trong đó chỉ có một người là chân truyền. Quản đồ đệ rất nghiêm, hơi một chút là đánh đập đồ đệ, họ không quan tâm chư vị chịu đựng hay không, cứ khiến chư vị vượt qua. Cho nên họ thường đều chọn biện pháp mạnh, buộc chân đệ tử lại, trói tay ra sau lưng, tự chư vị không tháo ra được, có nằm xuống chư vị cũng không tháo ra được, do đó có những [đồ đệ] đau quá ngất đi. Quá khứ là có làm như thế, tu luyện thời đó rất là khổ.
Đọc đến đây, trong tâm tôi xúc động sâu sắc, tràn ngập cảm giác đau đớn khôn cùng, cảm thấy loại thống khổ đó thực sự xuất hiện trên thân thể tôi, trong tâm tôi run rẩy. Khi đọc đến phần “Ai luyện công ai đắc công” trong sách “Chuyển Pháp Luân”, tâm tôi lại tràn ngập sự cảm kích không lời nào diễn tả nổi đối với Sư tôn, nước mắt không ngừng tuôn rơi, tôi cảm động vì tôi giờ đây thực sự có thể tu luyện, có thể trở về, tôi cảm thấy Sư tôn mới là người thực sự nghĩ cho đệ tử.
Tu luyện trong quá khứ phải chịu rất nhiều thống khổ, nhưng lại không được tu luyện bản thân thực sự. Trong câu chuyện kể trên, khi hòn đá ở tầng thứ 28 trong Tam giới, nó đã vô tình bị tôi gạt xuống nước, nếu rơi vào nước thì nó sẽ không trở ra được, không thể thu được khí tinh hoa của trời đất, do vậy ở dưới nước nó đã vô cùng căm ghét tôi, cho nên nó đã nghe theo an bài của Thần tiên chuyển sinh thành thiếu nữ dụ tôi rời khỏi chỗ đả tọa. Xem ra mọi việc gặp phải trong tu luyện đều không ngẫu nhiên.
Trong tu luyện Đại Pháp, Sư tôn đã ban cho chúng ta hết thảy những thứ tốt nhất, đã thiện giải hết thảy những ân oán, lại còn bảo hộ chúng ta, cứu độ chúng ta, chúng ta sao có thể buông xuôi được? Huống hồ Sư tôn đã giảng rõ cho chúng ta cơ chế và kết quả:
Tu luyện như thuở đầu, thì tất thành (Giảng Pháp ngày Pháp Luân Đại Pháp Thế giới [2014]).
Tôi viết ra câu chuyện mà mình nhìn thấy, để mong thức tỉnh các đồng tu, người tu hành tu luyện trong quá khứ nếu không giữ vững bản thân sẽ mất đi sinh mệnh, nhưng dù tu luyện thế nào cũng đều là tu phó nguyên thân, kết cục đều đã được an bài cả rồi, tu tới tu lui thì chủ nguyên thần cũng không đắc được chính quả, đều tu mà như không, chủ nguyên thần chỉ là vật tải thể. Cho nên chúng ta càng phải trân quý cơ duyên tu luyện Đại Pháp, chỉ có chân chính tu luyện bản thân thật tốt, hướng nội vô điều kiện, mới không phụ ơn từ bi cứu độ của Sư tôn, mới có thể trở về ngôi nhà nơi thiên thượng.