Thứ Bảy, 7 tháng 2, 2015

Bí ẩn xung quanh 4 chiếc mũ vàng ở thời kỳ đồ đồng

Những khám phá di tích và hiện vật cổ đáng kinh ngạc thách thức sự hiểu biết của nhân loại về xã hội và nền văn hóa cổ đại, cung cấp nhiều thông tin thú vị về các nền văn minh trong quá khứ. Một ví dụ điển hình cho điều này là việc phát hiện bốn chiếc mũ vàng hình nón từ thời kỳ đồ đồng.

thời kì Đồ Đồng, người cổ đại, mũ vàng,
Bốn mũ vàng, từ trái qua phải:  Vienve, Pháp (1844), Miền Nam nước Đức hoặc Thụy Sĩ (1996), Schifferstadt, Đức (1835), Ezelsdorf, Đức (1953).
Được phát hiện tại các địa điểm và thời gian khác nhau, bốn mũ vàng có nhiều điểm tương đồng về kích thước, hình dáng, kiểu mẫu và kết cấu. Hình dạng nón của chúng khá giống mũ đội của những phù thủy hay pháp sư. Điều này dẫn đến suy đoán, những cái mũ này được đội bởi những người đảm nhận công việc này. Trên mũ, người ta khắc những biểu tượng có lẽ từng được dùng để dự đoán các thời điểm trong hoạt động nông nghiệp hay tính toán thiên văn, qua đó có thể nâng cao vị thế thiêng liêng của người đội.
Bốn mũ vàng là phát hiện hiếm có thuộc thời kỳ Đồ Đồng (3300 – 700 năm TCN). Tất cả các mũ đều được tạo ra vào khoảng giữa của giai đoạn này, tức là từ 1400 – 800 năm trước Công Nguyên. Mỗi cái được phát hiện riêng lẻ tại các địa điểm khác nhau, trong suốt 160 năm qua, bởi ba người ở Đức và một người ở Pháp. Tất nhiên, có thể nhiều mũ vàng hơn sẽ được phát hiện trong tương lai.
Những di vật này được làm từ vàng tấm, với thiết kế thiên văn phức tạp, hẳn được tạo ra từ những đôi tay cực kì khéo léo. Bốn chiếc mũ đều có những đặc điểm chung nổi bật, nhưng cũng có những đặc điểm đặc trưng riêng.
thời kì Đồ Đồng, người cổ đại, mũ vàng,
Chiếc mũ vàng thời kỳ đồ đồng (1000 – 800 năm trước Công Nguyên). (Wikimedia Commons)
Chiếc mũ đầu tiên được phát hiện vào năm 1835, tại Schifferstadt, Đức. Nó được gọi là Mũ vàng Schifferstadt. Chiếc mũ này dường như bị ai đó cố tình chôn lấp, và được một người nông dân phát hiện. Nó là cái ngắn nhất trong bốn cái mũ, cao chỉ 29.6 cm. Chiếc mũ được trang trí bằng những đường viền chạy dọc theo hết đường kính mũ. Mỗi đường viền có một kiểu họa tiết thiết kế đặc trưng, như hình tròn, hình đĩa, và hình trông giống con mắt. Mũ vàng Schifferstadt có niên đại vào khoảng 1400-1300 năm trước Công Nguyên.
thời kì Đồ Đồng, người cổ đại, mũ vàng,
Mũ vàng Schifferstadt (Wikimedia Commons)
Chiếc mũ thứ hai được phát hiện là Mũ vàng Avanton hình nón ở Pháp năm 1844. Mũ Avanton xuất hiện trong khoảng thời gian giữa 1000-900 năm trước Công Nguyên, và là chiếc duy nhất không có vành. Tuy nhiên, dấu hiệu hư hại chỉ ra, mũ Avanton trước kia cũng có vành. Hình nón cao 55 cm, Mũ Avanton cũng có các đường viền với các hình tròn lặp đi lặp lại.
thời kì Đồ Đồng, người cổ đại, mũ vàng,
Mũ vàng Avanton hình nón (Wikimedia Commons)
Chiếc mũ thứ ba là chiếc mũ vàng Ezelsdorf-Buch, được phát hiện gần Ezelsdorf, Đức, vào năm 1953. Chiếc mũ vàng hình nón Ezelsdorf là cái cao nhất trong bốn chiếc mũ, với chiều cao 88 cm, và vẫn kiểu đường viền có hình tròn lặp đi lặp lại, ngoài ra còn có hình đĩa và hình giống con mắt. Chiếc mũ có niên đại khoảng 1000-900 năm trước Công Nguyên.
thời kì Đồ Đồng, người cổ đại, mũ vàng,
Cái nhìn cận cảnh Mũ vàng hình nón Ezelsdorf-Buch cho thấy các thiết kế phức tạp được khắc trên những tấm vàng. (Wikimedia Commons)
Xuất xứ của chiếc mũ vàng thứ tư chưa xác định, nhưng có thể nó đã được tìm thấy ở miền Nam nước Đức hay Thụy Sĩ. Chiếc mũ gây được sự chú ý ở triển lãm Thương mại Nghệ thuật Quốc tế năm 1995. Chiếc mũ có niên đại khoảng 1000-800 năm trước Công Nguyên, được biết đến với cái tên là Mũ vàng Berlin, vì nó được bảo tàng Berlin mua lại. Chiếc mũ có chiều cao 75cm, với các đường viền hình tròn giống như những cái khác.
thời kì Đồ Đồng, người cổ đại, mũ vàng,
Chi tiết của chiếc Mũ vàng Berlin (Wikimedia Commons)
Mục đích của những chiếc mũ vàng vẫn chưa xác định. Dù được tìm thấy ở những khu vực khác nhau, nhưng người ta suy đoán có thể chúng có cùng mục đích sử dụng.
Trong một khoảng thời gian, những chiếc mũ được cho là biểu tượng của khả năng sinh sản, có lẽ do hình dạng của chúng. Các nhà nghiên cứu cho rằng những chiếc mũ là một phần của trang phục cổ đại, đó có thể là bộ áo giáp, hay chiếc bình dùng trong nghi lễ. Sau đó, chúng lại được xem là những vật dụng được đặt trên những chiếc cọc tại các điểm cúng tế như một món đồ trang trí. Hoặc có người suy đoán chúng thuộc về các pháp sư như đã nói ở trên.
Thời gian gần đây, các nhà khảo cổ và sử học Đức cho rằng trên thực tế, những chiếc mũ đã được các pháp sư sử vào thời kỳ Đồ Đồng. Lập luận được đưa ra liên quan đến biểu tượng chiêm tinh được dùng để theo dõi các ngôi sao và Mặt trời, dự đoán thời tiết trong nông nghiệp, cụ thể là thời điểm trồng trọt và thu hoạch. Những họa tiết trên chiếc mũ được cho là ám chỉ đến “Vua pháp sư”, bởi chỉ có họ mới có thể đưa ra những dự đoán này và được cho là có quyền lực siêu nhiên. Vào thời cổ đại, khả năng dự đoán về khí hậu được xem là sức mạnh thần thánh.
Wilfried Menghin, Giám đốc Bảo tàng Berlin, đã nghiên cứu  kỹ về những chiếc mũ. Theo Menghin, Vua pháp sư “sẽ được xem là vị Thần của Thời gian, là người có khả năng tiếp cận kiến thức thần thánh, và kiến thức này cho phép họ nhìn thấy tương lai”. Menghin cho biết, biểu tượng Mặt trời và Mặt trăng là phù hợp với “chu kỳ meton”, chu kì giải thích về mối quan hệ thời gian giữa Mặt trời và Mặt trăng. Những kiến thức mà mô hình này cung cấp cho phép suy ra những dự đoán dài hạn về chu kỳ Mặt trời và Mặt trăng.
Nhìn chung, điều này cho thấy những người sống ở Châu Âu thời kỳ Đồ Đồng có trí tuệ cao hơn nhiều so với những gì chúng ta từng biết về họ.
Có lẽ quan điểm cho rằng những chiếc mũ vàng được đội bởi pháp sư cổ đại không phải truyền thuyết hay huyền thoại, mà là phản ánh chân thực sự thừa nhận của cộng đồng trước khả năng tiên tri của họ.
Việc phát hiện ra bốn chiếc mũ vàng đã đưa ra góc nhìn thú vị về cuộc sống và hoạt động của những người cách đây ba thiên niên kỷ. Việc sử dụng những chiếc mũ để dự đoán sự chuyển động của Mặt trời, và mối liên hệ thời gian giữa Mặt trời và Mặt trăng không phải là điều gì hoàn toàn mới lạ. Nhiều hiện vật cổ đại cũng có những họa tiết chiêm tinh. Nhưng lý do họ lại diễn đạt kiến trức trên chiếc mũ vàng thì vẫn chưa được làm rõ. Với những nghiên cứu chuyên sâu hơn, một ngày nào đó chúng ta sẽ biết được lý do tại sao các ‘pháp sư’ của thời kỳ Đồ Đồng đội những chiếc mũ vàng tuyệt đẹp này.
Thanh Phong – Dịch từ Acient Origins

Bức ảnh siêu thường chứng minh sự thần kỳ của Phật Pháp

CÙNG CHỦ ĐỀ

Phật Pháp vô biên, thần tích có thể xuất hiện rõ ràng nơi thế gian, nhưng vẫn có những thế lực tìm cách phá hoại khiến con người không tin vào sự thật này. Tội chồng thêm tội, liệu thiên lý có thể dung tha.

Sư Phụ Lý, Phật Pháp, Nhạc Phi Miếu, bút tích, Bài chọn lọc,
Bút tích của Lý Đại sư tại Nhạc Phi Miếu ở Thang Âm, Hà Nam, năm 1998.
Ngày 11/9/1997, Sư phụ Lý Hồng Chí, người sáng lập Pháp Luân Công, một môn tu luyện của Phật gia, đã đến thăm Huyện Thang Âm, Hà Nam. Vào buổi sáng, Lý Đại  sư trước tiên đến thăm miếu Nhạc Phi được lập trong thị trấn, buổi chiều ông ghé qua làng quê cũ của vị tướng kiên trung này.
Theo lời kể của người quản lý miếu Nhạc Phi, sau khi Lý Đại sư đến, ông bước vào trong nhà, trước nhà sau nhà, trong phòng ngoài phòng đều được xem xét tường tận, xem vô cùng tỉ mỉ, rồi ông tiến đến thắp hương tại điện thờ. Nhìn thấy sau điện, gỗ đá dùng để duy tu xây dựng được chất thành đống, Lý Đại sư quyết định quyên tặng một số tiền. Người quản lý mời ông lưu lại danh tính, nói rõ rằng chiếu theo quy định, người quyên một số tiền nhất định có thể được lập bia lưu niệm, người nào đóng góp nhiều thì ban quản lý có thể lập một bia riêng cho họ. Lúc đó, Lý Đại sư không muốn lưu lại danh tính. Nhưng khi ông bước ra xe, người quản lý đi theo ra đến cửa, khẩn khoản mời để lại danh tính, Lý Đại sư dừng lại  một chút, rồi từ cuốn sổ nhỏ xé ra tờ giấy đưa cho người quản lý. Trên giấy ghi một bài thơ với nhan đề “Du Nhạc Phi miếu” đăng trong cuốn Hồng Ngâm sau này:
“Du Nhạc Phi Miếu
Bi tráng lịch sử lưu thuỷ khứ,
Hạo khí trung hồn lưu thế gian;
Thiên cổ di miếu toan tâm xứ,
Chỉ hữu đan tâm chiếu hậu nhân”.
1997 niên 9 nguyệt 11 nhật vu Thang Âm.
Diễn nghĩa:
“Thăm miếu thờ Nhạc Phi
Lịch sử bi tráng như dòng nước chảy qua rồi,
Hồn của người trung thành khí phách còn lưu thế gian;
Miếu thờ để lại từ thiên cổ ấy nơi lòng chua xót,
Chỉ có tấm lòng son sắt chiếu rọi đến người sau”.
Thang Âm, ngày 11/9/1997.
Sau khi Lý Đại sư đi rồi, người quản lý mời thợ về khắc viết bài thơ trên bia. Tấm bia không lớn, cũng không tuân theo bút tích của ông (chữ người thợ dùng là Khải thư). Do đó, khi các đệ tử Đại Pháp của Sư phụ Lý Hồng Chí ở địa phương đó biết được việc này, họ đã tìm cách chiếu theo bút tích của Sư Tôn để khắc lại một tấm bia thơ mới to lớn, trang nghiêm, đường đường chính chính đặt tại phía đông trước cửa chính điện Nhạc từ đường.
Tuy nhiên, tấm bia đã bị phá bỏ sau sự kiện ngày 25/4/1999, đây vốn là sự kiện chấn động Trung Quốc lúc bấy giờ, khi 10.000 học viên Pháp Luân Công tập trung tại Trung Nam Hải, cơ quan trọng yếu của chính quyền Trung Quốc, để yêu cầu chính phủ ngưng việc leo thang bắt bớ và đánh đập người theo tập môn này. Đây chỉ là cuộc thỉnh nguyện ôn hòa, nhưng Đảng Cộng Sản Trung Quốc sau đó đã vin vào và làm thành cái cớ phát động chiến dịch đàn áp Pháp Luân Công vào ngày 20/7/1999, trong đó có hoạt động mổ sống thu hoạch tạng hòng thu về các khoản lợi nhuận khổng lồ.
Sư Phụ Lý, Phật Pháp, Nhạc Phi Miếu, bút tích, Bài chọn lọc,
Học viên Pháp Luân Công thỉnh nguyện ôn hòa vào ngày 25/4/1999, sau khi tập trung và được chính quyền hứa hẹn nhiều điều, tất cả giải tán mà không để lại chút rác. Nhưng vào ngày 20/7/1999, 100 triệu học viên Pháp Luân Công phải đối mặt với chiến dịch đàn áp tàn bạo nhất trong lịch sử.
Hưởng ứng chiến dịch này, những nhân viên của Đảng ở thành phố Yên Dương, Hà Nam nghe theo mệnh lệnh từ cấp trên vốn có tâm địa hẹp hòi, khơi mào sự tình, bịa đặt viện cớ, đã cố tình đẩy ngã di dời tấm bia thơ này. Lúc đó, rất nhiều đệ tử Đại Pháp địa phương và các nơi khác đã đến để bảo vệ bia. Tiếc là tấm bia thơ này đã bị lực lượng tà ác phá hủy.
Ba tấm hình bên dưới đây là do đệ tử Đại Pháp ở Tây An chụp được vào tháng 11/1998, khi du lịch ở miếu Nhạc Phi, Thang Âm, Hà Nam. Lúc bấy giờ, ảnh được chụp từ  máy chụp phim, sau khi được rửa ra, xuất hiện một điều thần kỳ: tấm bia bằng đá  cẩm thạch đen dày đặc  có khắc bút tích của Lý Đại sư trở nên trong suốt, cảnh sắc người và vật phía sau rõ ràng có thể nhìn thấy được, và lời đề tựa của Lý Đại sư như treo lơ lửng giữa không trung. Thậm chí, “tấm bia đá trong suốt” còn có thể có công năng phản chiếu như một tấm gương, người chụp hình đứng trước tấm bia đá khi chụp cũng nhìn thấy sự phản chiếu mạnh mẽ.
Sư Phụ Lý, Phật Pháp, Nhạc Phi Miếu, bút tích, Bài chọn lọc,
Tấm bia lưu bút tích của Lý Đại Sư vốn là cẩm thạch màu đen đặc, khi chụp lên ảnh lại trở nên trong suốt như gương, chữ như treo trên không.
Sư Phụ Lý, Phật Pháp, Nhạc Phi Miếu, bút tích, Bài chọn lọc,
Ánh sáng phản chiếu khi chụp từ tấm bia thơ để bút tích của Lý Đại sư tại Nhạc Phi miếu, Thang Âm, Hà Nam.
Bức ảnh siêu thường chứng minh sự thần kỳ của Pháp Luân Đại Pháp, chứng kiến một đoạn thời gian khó quên, phát ra nguồn năng lượng thuần chính cường đại hướng đến mọi người.
Mai Mai – Theo Sound of Hope