Thứ Năm, 18 tháng 9, 2014

Thấy Pháp Thân của Sư Phụ trước khi đắc Pháp

Trước khi đắc Pháp, tôi đã nhìn thấy Pháp thân của Sư phụ


[MINH HUỆ 11-06-2014] Năm nay tôi 70 tuổi. Tôi bắt đầu tu luyện Pháp Luân Đại Pháp ngày 07 tháng 10 năm 1997. Vì những tuyên truyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ), tôi đã từng là người vô thần và không tin vào Thần Phật. Tuy nhiên một trải nghiệm kỳ diệu đã khiến tôi thay đổi quan niệm của mình.
Năm 1992, chúng tôi biết có một thầy khí công ở Thượng Hải đến thành phố chúng tôi. Chồng tôi mua vài vé vì bố chồng tôi đang bị bệnh nặng và anh muốn ông hưởng được lợi ích từ khoá học khí công này. Anh không mua vé cho tôi vì tôi không hứng thú và không muốn đi. Đến khóa học, em chồng của tôi gọi điện và nói rằng cô ấy không thể đi dự được.
Ánh sáng màu vàng
Mẹ chồng và chồng tôi đều khăng khăng muốn tôi đi dự khoá học đó nên tôi đã miễn cưỡng đi dự. Đêm đó khi đi ngủ tôi nhìn thấy một tia sáng vàng chiếu qua cửa sổ vào giường của mình. Tôi thức dậy, đi ra ngoài ban công và nhìn thấy một người đàn ông trong y phục màu vàng, ngồi ở giữa không trung, toàn thân phát ra ánh sáng chói màu vàng.
Tôi ngạc nhiên đánh thức chồng dậy và nói: ”Nhìn kìa, có một người đàn ông trong y phục màu vàng đang ngồi ở giữa không trung. Toàn thân ông ấy phát sáng, chiếu đến tận giường của chúng ta!” Chồng tôi rời khỏi giường và đi ra ban công. Anh nhìn chăm chú lên bầu trời một lúc rồi trở lại và nói: ”Anh không thấy gì cả. Có phải đó là thầy khí công mình gặp hôm nay không? Tôi nói:”Không phải đâu. Ông ấy nhỏ và gầy. Người ta còn phải giúp ông ấy đi lại mà.
Còn người đàn ông này thì to lớn, ngồi trong tư thế song bàn với tay để trên hai chân. Ông ngồi trên không trung. Làm sao ông ấy có thể ngồi trên không như vậy?” Chồng tôi không nhìn thấy ông ấy và không tin tôi. Anh trở về giường ngủ tiếp.
Tôi không thể ngủ lại. Tôi nằm trên giường với những tia sáng vàng chiếu rọi lên người. Tôi cảm thấy rất dễ chịu nhưng cũng bắt đầu thấy sợ hãi khi chùm ánh sáng vẫn chưa biến mất. Tôi nên làm gì? Tôi kéo chăn trùm qua đầu và nhắm mắt lại nhưng vẫn không có tác dụng. Tôi vẫn cảm nhận được ánh sáng vàng như thể tôi vẫn đang mở mắt.Tôi bước ra khỏi giường, nằm xuống nền nhà và trùm chăn kín người nhưng cũng không có tác dụng. Tôi lấy hết quần áo ra khỏi tủ quần áo và chui vào trong đó nhưng ánh sáng vẫn chiếu lên người tôi. Tôi đi xuống bếp và lấy một cái chảo nhôm đội lên đầu và nghĩ rằng cách này chắc chắn có thể che ánh sáng vàng nhưng vẫn không ích gì. Tôi cảm thấy căng thẳng. Dù đi bất cứ đâu, ánh sáng vàng vẫn theo tôi. Tôi không biết mình nên làm gì. Lúc đó đã 3 giờ rưỡi sáng. Tôi không có sự lựa chọn nào khác đành để cho ánh sáng đó chiếu lên người mình và về giường ngủ.
Ngày hôm sau tôi đi làm và hỏi đồng nghiệp: ”Có ai thấy một người đàn ông ngồi trên trời với y phục màu vàng lấp lánh ánh sáng vàng vào lúc 10 giờ rưỡi tối qua không? Họ trả lời là không thấy ông ấy. Một vài người hỏi liệu tôi có nằm mơ không. Tôi nói: ”Không, đó không phải là một giấc mơ. Ánh sáng đó vẫn còn chiếu lên người tôi lúc này.” Họ không hề tin tôi. Vài người nói: ”Chị vốn là người vô thần và chẳng tin điều gì cả. Sao hôm nay bỗng nhiên mê tín thế?” Tôi cảm thấy tệ hại và bất lực nhưng không thể đưa ra chứng cứ nào. Họ nhìn tôi với vẻ mặt hoài nghi và nói chuyện bằng giọng cười mỉa mai.
Tôi không thể giải thích cho họ một cách rõ ràng. Vì sao tôi lại gặp chuyện như vậy? Tôi từng dán nhãn cho những ai tin vào Thần Phật là “mê tín”. Bây giờ tôi cũng bị gọi là như vậy. Tôi tự hỏi, liệu nó là đúng hay sai? Họ cho rằng nó sai nhưng tôi đã từng thấy và trải nghiệm điều đó và ánh sáng ấy vẫn chiếu lên người tôi. Tôi nghĩ nó có thật nhưng tại sao những người khác không chứng kiến được điều này? Tôi không thể giải thích được nên không nói về nó nữa để tránh sự chế nhạo của mọi người. Tôi đã từng có thái độ giống như thái độ của họ với tôi. Bây giờ tôi đã có thay đổi cơ bản trong tâm mình. Chuyện thật xảy ra như vậy. Sao tôi có thể không tin được? Bây giờ tôi đã tin.
Một ngày nọ khi đạp xe, tôi cảm thấy người mình ấm lên vì những tia sáng chiếu vào người nhưng tôi không bị đổ mồ hôi. Tôi kêu thành tiếng: ”Sư phụ”. Tiếng gọi to đến nỗi những người xung quanh quay lại nhìn. Tôi cảm thấy xấu hổ và cúi đầu thấp xuống.Tôi không biết nói gì với họ. Ánh sáng vàng đã ở bên tôi suốt 18 ngày trước khi nó dần biến mất. Tôi quyết định tìm kiếm vị sư phụ này. Tôi bắt đầu hứng thú với những câu chuyện cổ tích và đi tham dự các lớp học khí công, nhưng vẫn chưa tìm được sư phụ.
Tôi từng làm phẫu thuật tuyệt dục vào năm 1985. Bác sĩ đã làm tổn thương ruột thừa của tôi trong ca mổ nên sau đó tôi cần phẫu thuật tiếp ruột thừa. Ruột thừa của tôi đã bị viêm. Những năm sau tôi có tất cả 6 đến 7 lần phẫu thuật nên có khá nhiều vết sẹo ở dạ dày. Tôi cũng bị nhiều di chứng hậu phẫu: Khi tôi cúi người xuống, thì vết mổ ruột thừa lồi lên một cục máu, khiến tôi rất khó chịu. Tôi cũng bị viêm khớp và đã uống 200 thang thuốc Trung y nhưng không thấy khoẻ hơn. Tôi cũng bị sa dạ dày và bệnh thoái hoá tiểu não. Tôi thường xuyên đến gặp bác sĩ nhưng sức khoẻ vẫn cứ ngày một xấu đi. Không có một ngày nào tôi cảm thấy thoải mái cả.
Tháng 10 năm 1997, một người hàng xóm của tôi nói rằng:” Trông chị không khoẻ lắm. Chị có muốn cùng tôi luyện vài bài tập không?” Tôi hỏi cô ấy đang tập môn gì. Cô trả lời: ”Pháp Luân Công. Môn này rất tốt và lại miễn phí. Các học viên đều rất tốt bụng.” Tôi nói: ”Vâng, em sẽ tập.”
Cuối cùng tôi cũng tìm được Sư phụ và Pháp Luân Đại Pháp
Ở điểm luyện công sáng hôm sau, phụ đạo viên chỉ cho tôi các động tác của bài tập. Tôi cảm thấy như mình đang gặp người thân lâu lắm chưa gặp. Cô ấy chỉnh lại những động tác của tôi một cách ân cần. Tôi cảm thấy rất ấm áp trong tâm.
Cô ấy cho tôi xem một bức tranh lớn với nhiều hình minh hoạ và giải thích các động tác. Khi tôi thấy hình minh hoạ và những hình ảnh của bài công pháp thứ năm, tôi cảm thấy choáng váng: ”Đó có phải là vị sư phụ tôi đã thấy ngồi trên bầu trời năm 1992 đó không? Ôi trời ơi! Cuối cùng tôi cũng tìm thấy ngài!” Tôi không thể ngăn được những giọt nước mắt. Tim tôi đập nhanh và toàn thân tôi run lên. Tôi đã không nói nên lời.
Vị phụ đạo viên hỏi tôi có chuyện gì xảy ra. Tôi đã không nói gì cho tới khi bình tĩnh lại. Tôi nói với cô ấy: ”Đây là vị Sư phụ tôi đã tìm kiếm bấy lâu nay.” Tôi giải thích cho cô nghe toàn bộ câu chuyện năm 1992. Cô ấy nói: ”Chị có nhân duyên đó.” Sau đó tôi quyết tâm rằng mình sẽ đi theo sư phụ cho đến khi viên mãn và sẽ không dao động trong bất kỳ hoàn cảnh nào.
Kể từ đó tôi học Pháp, tham gia luyện công mỗi ngày và giúp các phụ đạo viên treo các tranh minh hoạ luyện công trong công viên. Những buổi sớm mùa đông tôi thấy Sư phụ đứng bên cạnh chúng tôi với đôi chân trần. Tôi nghĩ nếu Sư phụ không sợ lạnh thì tôi cũng sẽ không sợ lạnh.
Được vài ngày tôi cảm thấy quanh rốn mình bị nhiễm trùng. Sau đó một vật đỏ sẫm lồi ra khỏi lỗ rốn. Tôi kéo nó ra bằng một cây kim và thấy nó như một cái vòng với hai cái sừng nhỏ. Khi nhìn kỹ hơn tôi nhận ra nó chính là sợi chỉ thắt nút đã nằm trong bụng tôi hơn 10 năm nay. Đột nhiên nó bị rơi ra. Kể từ đó tôi có thể cúi người bình thường mà không còn bị đau bụng nữa. Một tháng sau khi tôi bắt đầu luyện Pháp Luân Công, tất cả bệnh tật đều biến mất. Tôi có thể đi bộ tới trạm xe buýt để đi học Pháp.
Một ngày mùa đông nọ, trời lạnh và có tuyết rơi. Sau khi luyện công xong, tôi thấy chỉ còn bốn học viên ở lại. Tôi thấy lạnh cóng và bị sụt sịt. Tôi đã từ từ đẩy được xe đạp về nhà. Về nhà toàn thân tôi run lập cập nhưng không cảm thấy lạnh. Cảm giác đó giống như ve sầu rùng mình thoát xác. Kể từ đó thân thể tôi trở nên rất nhẹ nhàng, giống như đã hoàn toàn thay da đổi thịt.
____________________________________
Bản tiếng Hán : http://www.minghui.org/mh/articles/2014/6/11/得法前,见到师父的法身-293315.html
Bản tiếng Anh: http://en.minghui.org/html/articles/2014/6/20/1719.html
Đăng ngày 16-09-2014: Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai cho sát hơn với nguyên bản.

Mọi thứ vì quyền lực: Câu chuyện có thật về Giang Trạch Dân ở Trung Quốc – Phần kết

Mọi thứ vì quyền lực: Câu chuyện có thật về Giang Trạch Dân ở Trung Quốc – Phần kết

Vào một ngày trong tương lai, Liên minh Toàn cầu Đưa Giang ra Công lý, với sự cộng tác của quan tòa từ nhiều nước khác nhau sẽ hình thành nên một bồi thẩm đoàn, ở ngay giữa quảng trường Thiên An Môn mà tiến hành công thẩm với Giang Trạch Dân.

Hoàng Sơn lão tăng giải rõ nhân duyên; Giang quỷ bị tống vào Ngục Vô Gián
Vào đầu xuân năm Ất Dậu âm lịch (giữa tháng 2 năm 2005), người ta đã phát hiện thấy hoa Ưu Đàm Bà La (Udumbara) nở ở hai nơi tại Hàn Quốc – Chùa Yongjusa trên núi Gwanaksan, ở Uiwang-si, Gyeonggi-do, và ở Thiền viện Sumi tại Haeryong-myeon, ở Suncheon-si, Jeollanam-do. Đây là một loại hoa mọc trên lá (epiphyllum) rất hiếm gặp, và nó đã xuất hiện trên mặt của các bức tượng Phật bằng đồng ở đó. Người Trung Quốc có câu thành ngữ: “Đàm Hoa nhất hiện” (Hoa Ưu Đàm chỉ nở một lần). Và hoa Ưu Đàm Bà La không phải là một loại hoa Ưu Đàm thông thường: nó chỉ nở một lần trong ba ngàn năm. Theo Kinh Phật thì hoa Ưu Đàm Bà La nở là dấu hiệu Pháp Luân Thánh Vương, hay “Chuyển Luân Thánh Vương” đã tới thế giới con người truyền Pháp.

Tin tức về hoa Ưu Đàm nở truyền tới huyện Kỳ Môn, tỉnh An Huy, Trung Quốc. Trong huyện có một người nông dân họ Văn, tên Truyền Đăng, là người sống một mình trong căn nhà đơn sơ. Sau khi nghe tin tức về hoa Ưu Đàm Bà La, Truyền Đăng tự hỏi: “Người ta nói rằng hoa Ưu Đàm Bà La khai nở báo hiệu Phật Di Lặc đã đản sinh. Mình thành tâm hướng Phật đã lâu, còn cha mẹ mình cũng vừa mới qua đời. Tại sao mình không bỏ lại căn nhà này và đi vân du bốn biển? Biết đâu mình lại được một cao tăng đắc đạo nhận làm đồ đệ, và có thể dành phần đời còn lại thành tâm kính Phật. Có khi mình còn được nghe Phật Di Lặc giảng Pháp, và đó là một hạnh phúc lớn lao.” Nhìn quanh nhà, anh không thấy đồ đạc nào có giá trị ngoài một thanh bảo kiếm do tổ tiên truyền lại. Thanh kiếm này dài một thước hai tấc, sắc bén dị thường, có thể dùng làm một món quà ra mắt sư phụ. Truyền Đăng mang theo thanh bảo kiếm cùng một chút tiền và lên đường tới dãy Hoàng Sơn [1] mong tìm được một cao nhân đắc Đạo.

Sau khi trèo lên đỉnh Quang Minh, một thắng cảnh trên ngọn núi, Truyền Đăng trông thấy một hướng dẫn viên du lịch đang thuyết minh cho đoàn khách của anh ta. Anh lắng tai nghe lời thuyết minh. Người đó nói: “Vài năm trước người ta phát hiện được một hang đá tự nhiên tại dãy Hoàng Sơn, bên trong có sảnh lớn, thạch trụ, thạch thất, ao nước và cả bích họa – tất cả đều là thiên nhiên tạo thành.” “Nếu quý vị có thời gian, tôi có thể dẫn quý vị đi thưởng ngoạn.” Cả đoàn khách hứng khởi và đồng ý ngay lập tức với lời đề xuất của người hướng dẫn viên, rồi đi theo đường mòn xuống núi. Truyền Đăng lúc ấy rỗi rãi chẳng còn việc gì làm nên đã bám theo họ.

Trong hang, người hướng dẫn viên giới thiệu: “Hang đá này được phát hiện ra vào năm 1999. Nó khá kỳ lạ. Đầu tiên, người ta phát hiện thấy rất nhiều đá vỡ ngoài cửa động, và điều này khiến họ tò mò đào sâu vào trong. Ngạc nhiên thay, càng đào vào sâu bao nhiêu thì người ta thấy càng nhiều đá vỡ bấy nhiêu. Không những vậy, họ còn tìm thấy nhiều xương trâu trong đống đá, khiến những người công nhân cảm thấy khó hiểu. Không ai có thể lý giải được tại sao cái hang lại chứa đầy đá vỡ và xương trâu như vậy. Dân vùng đó bèn đặt tên nó là ‘Thiên niên mê quật’ (Hang đá kỳ bí ngàn năm). Thêm vào đó, những bức bích họa đá trong hang thì không ai có thể lý giải được. Vào năm 2001, Giang Trạch Dân nghe nói về hang đá kỳ lạ này và đã có một chuyến đi đặc biệt tới đây.”

Sau khi người hướng dẫn viên nói xong, đoàn khách tản ra và đi ngắm các bức bích họa. Tuy đang là đầu xuân nhưng bên trong động lại rất lạnh lẽo. Khi Truyền Đăng nhìn thẳng vào những bức bích họa, anh thấy thanh bảo kiếm đeo bên hông bắt đầu lay động và kêu vo ve. Thấy quá lạ, anh bèn rút kiếm ra thì thấy nước đang chảy trên thân kiếm, khắp từ chuôi cho đến mũi. Tiếng kêu ngày càng to, liên miên không dứt như thể thanh kiếm chỉ trực tuột khỏi tay anh và phóng lên. Truyền Đăng lạnh đến dựng cả tóc gáy. Anh sợ rằng người khác có thể trông thấy cảnh tượng dị thường này, nên vội tra kiếm vào bao và bước vội vã ra khỏi động.

Khi vừa ra tới cửa động, Truyền Đăng rẽ qua bên phải thì bị vấp vào thứ gì đó và ngã nhào xuống đất. Ngước nhìn lên, anh trông thấy một lão tăng mặc áo cà sa màu vàng đang đứng cạnh cửa động, để tay trước ngực trong thế đơn thủ lập chưởng. Truyền Đăng vội vàng xin lỗi vì sự bất cẩn của mình.

Lão tăng dường như chẳng hề bực dọc, nhẹ nhàng hỏi: “Thí chủ cớ sao hoảng hốt như vậy?”

“Không có gì đâu”, Truyền Đăng đáp. “Chỉ là bên trong động lạnh thấu xương nên tôi muốn ra ngoài để lấy một chút ánh nắng mặt trời.”

Lão tăng trầm ngâm một lúc rồi nói: “Thật khó tin. Thế nhân trong cõi mê đâu biết được sự nguy hiểm của cái động này. Họ thậm chí còn coi nó là thắng địa để du ngoạn. Duy chỉ có thí chủ căn cơ phi phàm mới có thể thấy được và kịp thời rời khỏi động.”

Truyền Đăng thấy lời lão tăng nói vừa rõ ràng vừa huyền hoặc, mới biết ông không phải là người thường. Truyền Đăng nói: “Tôi không biết được đây là nơi hung hiểm, duy chỉ có thanh kiếm gia truyền của tôi rung lên và phát ra tiếng kêu. Tôi sợ người ta biết được nên mới rời khỏi động.”

“Bần tăng có thể mượn xem thanh kiếm được chứ?”, lão tăng nói.

Truyền Đăng không hề do dự, cầm thanh bảo kiếm đưa cho lão tăng. Lão tăng rút kiếm ra khỏi vỏ rồi quan sát nét chạm khắc trên đó. Rồi lão tăng hỏi: “Thí chủ có biết lai lịch của thanh kiếm này không?”

“Không”, Truyền Đăng đáp. “Nhưng đây là vật báu gia truyền qua nhiều thế hệ trong gia tộc tôi – có khi phải đến 2.500 năm rồi.”

Lão tăng gật đầu rồi hỏi: “Thí chủ họ Văn phải không?”

Truyền Đăng thấy thật kỳ lạ. “Phải! Sao sư phụ biết?”

Lão tăng bèn giải thích: “Thanh kiếm này có lai lịch đấy. Vào thời Xuân Thu (770-476 trước Công nguyên), có một thợ rèn kiếm tên là Âu Dã Tử đã rèn được ba thanh bảo kiếm cho Sở Vương, một là Long Uyên, hai là Thái A, ba là Công Bố. Ba thanh kiếm này được đưa cho Sở Bình Vương, Ngũ Tử Tư và Ngô Vương Phù Sai (Ngô Vương Phu). Nước Ngô và nước Việt thời ấy đang tranh chấp với nhau. Việt Vương Câu Tiễn bị Ngô Vương Phù Sai bắt được và phải sống ba năm trong căn nhà đá nuôi ngựa trước khi được trở về nước, và ông luôn nuôi hận báo thù. Câu Tiễn có hai đại tướng là Phạm Lãi và Văn Chủng. Văn Chủng đã hiến bảy kế sách nhưng Câu Tiễn chỉ dùng ba kế để tiến đánh nước Ngô. Phạm Lãi nhận binh đánh Ngô, sau đó vây hãm Ngô Vương Phù Sai, và Ngô Vương Phù Sai đã phải dùng thanh kiếm Công Bố để tự vẫn. Trước lúc lâm chung, ông đã để lại những chữ sau cho Phạm Lãi: “Giảo thỏ tử, tẩu cẩu phanh, phi điểu tận, lương cung tàng, địch quốc phá, mưu thần vong [2]” (Thỏ khôn chết, chó săn vào nồi, chim bay hết, cung tốt cất đi, địch bị phá, mưu thần chết). Phạm Lãi lấy được bảo kiếm rồi, sau khi xem di ngôn của Ngô Vương bèn khuyên Văn Chủng: “Việt Vương có tướng cổ dài và miệng như mỏ quạ, có thể nhẫn nhục nhưng đố kỵ với công lao của kẻ khác, có thể cùng chung hoạn nạn nhưng không thể cùng hưởng yên ổn. Giờ hai chúng ta đại sự đã xong, không bằng nên quy ẩn.” Văn Chủng không nghe. Phạm Lãi bèn để lại thanh kiếm Công Bố cho Văn Chủng rồi cùng nàng Tây Thi [3] vượt ba con sông và chu du Ngũ Hồ, cùng nhau hưởng cảnh thanh bình tự tại. Sau đó quả nhiên Việt Vương Câu Tiễn tâm địa hẹp hòi đã đố kỵ với tài năng của Văn Chủng và hại chết ông ta. Lão tăng nghe kể thanh bảo kiếm này là vật gia truyền nên mới đoán thí chủ lại mang họ Văn. Đây chính là thanh kiếm Công Bố và nó mang theo linh khí.”

Truyền Đăng nghe lão tăng giải thích như vậy liền nảy sinh lòng kính ngưỡng. Anh hỏi: “Tại sao thanh kiếm này lại kêu và rung lên khi ở trong động? Sư phụ ám chỉ điều gì khi nói ‘Thật khó tin. Thế nhân trong cõi mê đâu biết được sự nguy hiểm của cái động này.’?”

Lão tăng đáp: “Đây là thiên cơ, chỉ có thể tiết lộ cho những người thành tâm hướng Phật.”

Truyền Đăng chắp tay trước ngực trong thế hợp thập rồi nói: “Chẳng giấu gì sư phụ, con mang theo thanh kiếm này đi vân du với hy vọng tìm được một vị cao tăng có thể giúp con hiểu được gốc gác và câu chuyện đằng sau nó. Nếu sư phụ chẳng từ, con nguyện làm môn hạ của sư phụ. Con không có vật gì quý giá ngoài thanh bảo kiếm này, xin dâng sư phụ làm lễ ra mắt.”

Lão tăng cười nói: “Ta hiểu con nghĩ gì. Con là người không tham phú quý tiền tài, ta không ngại khi nói với con, nhưng ta không thể là sư phụ của con được. Trên thế gian này duy chỉ một người có thể cứu độ con thôi.”

Lão tăng ngưng thần, đưa ánh mắt nhìn ra xa trước khi tiếp tục.

“Việc hoa Ưu Đàm Bà La khai nở trên tượng Phật ở Hàn Quốc ứng với sự kiện Chuyển Luân Thánh Vương lấy danh hiệu Di Lạc hạ thế truyền Pháp. Không ai biết được lai lịch của người là Chuyển Luân Thánh Vương. Phật Thích Ca thời ấy gọi Ngài là “Vô Thượng Vương, Vương của vạn Vương.” Khi truyền Pháp tại Ấn Độ cổ thời bấy giờ, Phật Thích Ca gọi Ấn Độ là “ngũ độc ác thế” (thế giới với năm thứ độc). Hai nghìn năm trăm năm đã qua đi, tất cả tôn giáo trên thế giới đều đã tiến nhập vào thời Mạt Pháp, xã hội hiện đại đã là thập ác câu toàn rồi (đầy đủ mười điều ác). Nhân gian bất quá chỉ là biểu tượng mà thôi. Cả nhân gian, Thần giới lẫn Pháp giới, tầng tầng lớp lớp thương khung trong vũ trụ đều đang trong thời Mạt Kiếp. Tất cả sinh mệnh bên trong vũ trụ đều không có khả năng cứu vãn vũ trụ này. Duy chỉ có một vị Thần nằm ngoài vũ trụ với Pháp lực hồng đại mới có thể tái tạo càn khôn. Chuyển Luân Thánh Vương là hy vọng được cứu duy nhất của toàn vũ trụ.”

Sững sờ trước lời tiết lộ của lão tăng, Truyền Đăng hỏi tiếp: “Vậy thì Chuyển Luân Thánh Vương, cũng giống như Phật Thích Ca Mâu Ni, sẽ chuyển sinh xuống nhân gian chứ?”

“Không phải vậy”, lão tăng đáp. “Khi người ta thấy hoa Ưu Đàm Bà La khai nở, người ta nghĩ rằng Chuyển Luân Thánh Vương vẫn chưa xuất thế. Thực ra Ngài đã ở trên thế gian giảng Pháp được 13 năm rồi.”

Truyền Đăng bấm ngón tay tính toán rồi thất kinh: “Không phải sư phụ nói đến Pháp Luân Đại Pháp đấy chứ?” [4]

“Nhụ tử khả giáo” (Thằng bé này dạy dỗ được đấy), lão tăng nói kèm theo một nụ cười. “Con sẽ hiểu rõ hơn khi con tự suy xét. Bây giờ hãy nói về ‘hang đá kỳ bí ngàn năm’ này. Khi Pháp Luân Thánh Vương truyền Pháp, những sinh mệnh bại hoại trong vũ trụ đã hình thành nên một cựu thế lực cực kỳ tà ác. Để gây trở ngại cho Chính Pháp [5], chúng đã tạo ra Giang Trạch Dân để điên cuồng hành ác với Đại Pháp tại nhân gian. Nguyên thần của Giang Trạch Dân là một con cóc. ‘Hang đá kỳ bí’ này kỳ thực là một động cóc. Cửa vào động trông dẹt dẹt bằng bằng như hình cái chậu úp ngược, chính là miệng của con cóc, còn [sảnh lớn] bên trong chính là bụng của con cóc. Phần đỉnh lồi lên hình vòm của chiếc hang với màu xanh lục chính là lưng của con cóc. Sở dĩ thí chủ run lên vì lạnh ở trong hang là vì âm khí ở đó rất nặng, và ở đó tụ tập rất nhiều lạn quỷ mà không thể trông thấy bằng mắt thường. Thanh bảo kiếm rung lên vì nó muốn chém những thứ yêu tà này.”

Truyền Đăng đột nhiên ngộ ra khi ngẫm nghĩ về các bức bích họa ở trong động, và thấy nó quả nhiên liên quan tới con cóc. Rồi anh hỏi: “Người hướng dẫn viên nói rằng Giang Trạch Dân đã từng tới đây du ngoạn và đã ở trong động một thời gian lâu.”

“Đúng như vậy”, lão tăng đáp. Khi đàn áp Pháp Luân Công, nguyên khí của Giang Trạch Dân đã bị tổn thương nặng nề. Hồi tháng 5 năm 2001, cái bộ da người của Giang Trạch Dân chỉ còn thoi thóp nên hắn đã phải tới động cóc này ở dãy Hoàng Sơn để bổ sung năng lượng đen. Quân vương tàn bạo và chẳng đoái hoài gì tới dân thì dân chúng phải chịu khổ. Sự kiện Giang Trạch Dân du Hoàng Sơn trong 5 tháng vào hạ tuần đã tiêu tốn 200 triệu nhân dân tệ, và rất đông dân chúng thất nghiệp ở khu Hoàng Sơn này đã phải đi xây đắp đường cái. Chỉ riêng chi phí vận chuyển hoa quả bằng đường không tới cho ông ta đã lên tới 10 vạn nhân dân tệ. Vô số cảnh sát vũ trang đã được triển khai dọc theo con đường mòn dẫn tới cái động này. Giang Trạch Dân đã vượt qua con đường mòn trên một chiếc ghế làm từ tre và dây thừng, được thiết kế đặc biệt dành cho ông ta.”

Truyền Đăng vốn đã không có cảm tình với Giang Trạch Dân, nay nhân cơ hội hỏi: “Giang Trạch Dân rồi sẽ có kết cục ra sao?”

Lão tăng trả lời: “Quả báo đã ở nhãn tiền rồi. Chuyển Luân Thánh Vương là đức Phật Chủ từ bi vô lượng, tuy Giang đã bức hại Pháp Luân Công nhưng vẫn được cấp cho cơ hội để hối cải. Tuy vậy Giang đã chọn cách gây thêm tội nghiệp. Đến tháng 9 năm 2000, ông ta đã tự mình đoạn đứt cơ hội bằng chính hành vi của mình. Phật Pháp là từ bi, song cũng rất uy nghiêm. Nguyên thần của Giang đã bị triệt để đả nhập vào Ngục Vô Gián trong tháng 9 năm đó. Cái vẫn đang hoạt động trên thế gian hiện nay bất quá chỉ là bộ da người của hắn, được thao túng bởi đám lạn quỷ. Các đệ tử Pháp Luân Công đều biết thiên cơ nên gọi hắn là ‘Giang quỷ.’ Cái bộ da người hiện tại của Giang đang bị bệnh hoàng đản (chứng tắc mật khiến da vàng khè) và bệnh hắc thối. Hắn đã gần mù một mắt và bị què một chân. Hắn sẽ phải chịu đại nghiệp báo mãi không dứt. Từ xưa đến nay, kẻ nào bức hại Phật Pháp sẽ bị tống vào cửa Vô Sinh, vĩnh viễn không được siêu sinh.”

Truyền Đăng nói: “Thế thì Giang quỷ giờ cũng giống họa bì nữ quỷ [6] trong Liêu Trai Chí Dị.”

Lão tăng nghe vậy bèn cười nói: “Con quỷ đó ít nhất cũng khoác vào bộ da của mỹ nữ, trong khi cái thân thể xú uế của Giang thì phục phịch và kệch cỡm giống như một con cóc khổng lồ. Đám lạn quỷ chống đỡ cho hắn ta phải khó khăn hơn rồi.”

Lão tăng trầm ngâm một lúc rồi nói tiếp: “Đám lạn quỷ này có sự phân công – con thì biết nói thuyết, con thì biết hát, con thì biết chơi nhạc khí – bình thường thì không có vấn đề gì với hắn. Bởi vì Giang quỷ không có hồn phách gì hết, nên hắn ta thường xuất hiện trạng thái tinh thần hoảng hốt. Mỗi khi phải gặp nguyên thủ nước ngoài hay tạo thế trấn áp Pháp Luân Công, đám lạn quỷ cùng nhau chống đỡ nhục thân của Giang quỷ, khiến hắn phun ra những lời vu khống, lại còn vừa hát hò vừa nhảy múa.”

Truyền Đăng hỏi: “Lưu lại con yêu quái ấy là có dụng ý gì?”

Lão tăng đáp: “Con người chỉ nhìn những gì trước mắt, còn Trời nhìn xa hơn nhiều. Với một người tu luyện, trí tuệ siêu phàm thì nhìn lịch sử mấy ngàn năm qua của nhân loại như là một vở kịch. Hiện tại tên hề vẫn chưa đóng xong vai của hắn; hắn cần diễn nốt cảnh cuối cùng của vở kịch.”

Truyền Đăng hiếu kỳ bèn hỏi: “Khi nào thì đến lúc ấy?”

Lão tăng đáp: “Đạo Trời vi diệu và huyền bí. Đến lúc đó thí chủ tự nhiên sẽ biết.”

Truyền Đăng vẫn muốn hỏi thêm: “Sư phụ từng nói về ‘Ngục Vô Gián’. Con xin hỏi Ngục Vô Gián là gì?”

“Ngục Vô Gián cực rộng và cực lớn”, lão tăng đáp. “‘Vô Gián’, có nghĩa là hình phạt vĩnh viễn không bị gián đoạn. Vô Gián có năm phương diện: Thứ nhất, là vô thời gian, tức là thời gian không bị gián đoạn, kẻ thụ hình phải chịu tội ngày đêm, vĩnh viễn không bao giờ dừng. Thứ hai, vô không gian, kẻ thụ hình toàn thân chỗ nào cũng bị tra tấn, không chỗ nào không bị động tới. Thứ ba, tội khí vô gián, tức là các dụng cụ tra tấn không bị gián đoạn, không ngừng bị tra tấn bởi các phương thức khác nhau. Thứ tư, bình đẳng vô gián, tức là không phân biệt nam nữ, không phân biệt thân phận, đều phải chịu thụ hình như nhau. Thứ năm, sinh tử vô gián, kẻ thụ hình mỗi thời khắc đều phải chịu thống khổ cho đến chết, chỉ giữ lại chút ý thức để tiếp tục chịu tra tấn. Sinh mệnh phải chịu thống khổ khi bị tận diệt từng lớp từng lớp, vĩnh viễn không bao giờ dừng, trong vũ trụ này không có chuyện gì đáng sợ hơn.”

Một cơn ớn lạnh chạy khắp người Truyền Đăng, khí lạnh như chỉ trực chạy xuất ra khỏi cơ thể anh.

Lão tăng nói: “Thí chủ vừa bị nhiễm âm khí, có rất nhiều sự hỗn tạp ở nơi đây. Chi bằng thí chủ lên đỉnh Liên Hoa để nghỉ ngơi, tối nay lão tăng sẽ hộ pháp. Sáng hôm sau thí chủ hãy hạ sơn và đi tìm Pháp Luân Phật Pháp.”

Buổi sáng hôm sau, Truyền Đăng tỉnh dậy lúc mặt trời mọc thì không biết lão tăng đã đi hướng nào. Đưa mắt nhìn bốn phía, Truyền Đăng thấy những đỉnh núi được bao phủ bởi cả một biển mây. Đỉnh Thiên Đô ở đằng xa như đang tắm trong muôn vàn ánh nắng. Truyền Đăng nghĩ rằng đây là điềm của thiên địa phục minh (trời đất sáng tỏ trở lại). Đối với những lời lão tăng nói, Truyền Đăng tin tưởng mà chẳng chút nghi ngờ, nên đã xuống núi và tìm cuốn sách Chuyển Pháp Luân [7], và bước đi trên con đường tu luyện từ đó.

* * * * *

Vào một ngày trong tương lai, Liên minh Toàn cầu Đưa Giang ra Công lý, với sự cộng tác của quan tòa từ nhiều nước khác nhau sẽ hình thành nên một bồi thẩm đoàn, ở ngay giữa quảng trường Thiên An Môn mà tiến hành công thẩm (xét xử công khai) với Giang Trạch Dân. Lúc ấy chân tượng về Pháp Luân Công đã thật sự minh bạch trong toàn thiên hạ. Bồi thẩm đoàn tuyên đọc bản cáo trạng dài hơn nghìn trang đối với Giang Trạch Dân, tuyên hắn án tử hình vì tội phản quốc, tham ô, tra tấn, tội ác chống lại nhân loại, diệt chủng cùng nhiều tội danh khác.

Ngay khi đọc xong bản cáo trạng, từ trên không trung đột nhiên xuất hiện một sợi dây thừng trói chặt Giang từ đầu tới chân, treo hắn lơ lửng trên một cái móc ở giữa không trung. Gió và sấm chớp nổi lên ầm ầm. Hàng vạn tia sét đồng thời đánh vào Giang, đánh vào mỗi tấc trên cơ thể hắn. Khói phun ra mù mịt. Y phục, đầu tóc, da thịt, nội tạng và xương cốt của Giang đều cháy thành tro. Trong phút chốc toàn thân Giang đã bị lửa thiêu trụi không còn chút gì.

Vào lúc ấy, Văn Truyền Đăng đã tu luyện được một thời gian và đang chứng kiến kết cục của Giang trên quảng trường Thiên An Môn. Vô cùng hạnh phúc và biết ơn khi đắc được Đại Pháp và tu luyện trong thời Pháp Luân Thánh Vương truyền Pháp, Truyền Đăng đã làm bài thơ sau đây:

Chuyển thế nhân gian bất kế xuân,
Cơ hồi thương hải biến thành trần,
Hạnh kết Pháp duyên triều Phật Chủ,
Nhẫn khổ tinh tiến hỉ quy chân,
Tu đắc trường sinh thiên cổ tú,
Luyện tựu kim cương bất hoại thân,
Trợ Sư chuyển luân liễu hồng nguyện,
Tảo diệt quần ma chính càn khôn.

Diễn nghĩa:

Luân hồi chuyển thế trong nhân gian biết bao nhiêu mùa xuân,
Bao lần biển xanh đã biến thành cát bụi,
May được kết duyên với Pháp trong thời Phật Chủ,
Tinh tấn chịu khổ để phản bổn quy chân trong niềm hân hoan,
Tu luyện để đắc được sự trường sinh và thanh tú mãi mãi,
Luyện được thân thể kim cương bất hoại,
Hoàn thành hồng nguyện trợ giúp Sư phụ chuyển Pháp Luân,
Tiêu diệt ma quỷ, chính lại càn khôn.

Tạm dịch:

Luân hồi chuyển thế biết bao xuân,
Biển xanh phong hoá đã bao lần,
May đắc Đại Pháp thời Phật Chủ,
Tinh tấn chịu khổ để quy chân,
Tu đắc trường sinh mãi thanh tú,
Luyện thành kim cương bất hoại thân,
Trợ Sư Chính Pháp hoàn thệ ước,
Tái tạo càn khôn, diệt ma quân.

Khi đang ngâm nga bài thơ, trong tâm rất cao hứng, Truyền Đăng đột nhiên giật mình bởi tiếng âm thanh huyên náo của pháo hoa, chiêng và trống. Khắp thành phố, người người đều vui mừng như mở hội. Truyền Đăng giờ đã thật sự minh bạch câu nói của lão tăng ở núi Hoàng Sơn: “Tên hề vẫn cần đóng nốt vai của hắn.” Đang nghĩ ngợi, Truyền Đăng đột nhiên trông thấy một dải lụa vàng từ giữa trời hạ xuống và rơi xuống ngay trước mặt mình. Bắt lấy dải lụa trong tay, Truyền Đăng thấy một bài thơ sáu chữ như sau:

Sửu giác

Tam cước thiềm thừ hiện thế sửu,
Thập ác câu toàn tận âm mưu,
Thử tà tận tố đâu nhân sự,
Vô đức vô tài trang phong lưu,
Trung Hoa ngũ thiên văn vật tề,
Chỉ khiếm thử sửu hí trung tú.

Diễn nghĩa:

Tên hề

Con cóc ba chân hiện thành một tên hề,
Đầy đủ cả thập ác, giờ đã tận hết âm mưu,
Bao nhiêu việc tà ác mà nó đã làm,
Vô đức, vô tài tại lại được phong lưu,
Trung Hoa năm nghìn năm văn vật đầy đủ,
Chỉ thiếu một vai hề để diễn kịch.

Tạm dịch:

Tên hề

Cóc ba chân hoá tên hề,
Tích mười điều ác, cạn về âm mưu,
Hành ác, nhân sự tối ưu,
Vô tài, vô đức, phong lưu hơn đời,
Ngàn năm văn vật tựu rời,
Riêng vai hề đó ai thời đóng thay.

Ban biên tập Thời báo Đại Kỷ Nguyên
Ngày 6 tháng 10 năm 2005



Ghi chú của người dịch:

[1] Hoàng Sơn: Một dãy núi ở phía nam tỉnh An Huy, miền đông Trung Quốc. Dãy núi này nổi tiếng vì có cảnh quan đẹp, với những vách đá cheo leo, rừng thông và đỉnh núi phủ đầy mây, và là một trong những điểm du lịch hấp dẫn nhất Trung Quốc. Người Trung Quốc có câu: “Ngũ Nhạc quy lai bất khán sơn, Hoàng Sơn quy lai bất khán Nhạc.” (Đến Ngũ Nhạc rồi thì không muốn xem núi nào nữa, đến Hoàng Sơn rồi thì lại không muốn xem Ngũ Nhạc). Liên Hoa, Quang Minh và Thiên Đô là tên ba đỉnh núi cao nhất của dãy Hoàng Sơn.

[2] Chữ ‘vong’ ở đây vừa có nghĩa là chết, vừa có nghĩa là chạy trốn. Phạm Lãi sau khi đọc di ngôn của Ngô Vương thì thấy nó hàm ý rằng Việt Vương sẽ trở mặt giết hại công thần, đồng thời cũng khuyên mưu thần nên bỏ trốn để bảo toàn mạng sống.

[3] Tây Thi: Trong 7 kế mà Văn Chủng hiến cho Việt Vương để đánh Ngô thì có “mỹ nhân kế” – dâng người đẹp làm Ngô Vương mê đắm mà bỏ bê việc chính sự. Tây Thi là người đẹp nhất trong số 2.000 mỹ nữ được dâng cho Ngô Vương. Sau khi nước Ngô bị diệt, Phạm Lãi đã dẫn Tây Thi bỏ trốn vào vùng Ngũ Hồ (năm hồ nước là thắng cảnh vùng Giang Nam).

[4] Câu chuyện này xảy ra vào năm 2005. Sư Phụ Lý Hồng Chí bắt đầu truyền Pháp Luân Đại Pháp ra công chúng từ năm 1992, tính đến năm 2005 là tròn 13 năm.

[5] Chính Pháp: Quá trình làm chính lại Pháp của vũ trụ sau khi các sinh mệnh và vật chất trong toàn vũ trụ đã bị biến dị và sai lệch khỏi Pháp.

[6] Họa bì nữ quỷ: Con quỷ đội lốt mỹ nhân trong truyện ngắn “Họa bì”, thuộc tác phẩm Liêu Trai Chí Dị của Bồ Tùng Linh. “Họa bì” có nghĩa là lớp da người được con quỷ (trong truyện) dùng bút vẽ thành mỹ nhân trước khi nó khoác vào.

[7] Chuyển Pháp Luân: Cuốn sách chính yếu chỉ đạo cho tu luyện của Pháp Luân Đại Pháp . Bản tiếng Việt có tại: http://phapluan.org/book/zfl_html/index.html

—-

Xem bản gốc tiếng Hán tại đây: http://www.dajiyuan.com/b5/5/6/24/n963853.htm

Xem bản tiếng Anh tại đây: http://www.theepochtimes.com/news/5-10-6/33008.html

Mọi thứ vì quyền lực: Câu chuyện có thật về Giang Trạch Dân ở Trung Quốc – Giới thiệu

Mọi thứ vì quyền lực: Câu chuyện có thật về Giang Trạch Dân ở Trung Quốc – Giới thiệu

Hãy trả lại cho lịch sử những gì thực sự là của Giang Trạch Dân. Đây là trách nhiệm không thể thoái thác của tất cả chúng ta.

Nếu như số phận quyết định vận mệnh của một người, thì sự an bài của lịch sử cũng có khả năng dàn xếp cho một sinh mệnh có xuất thân đáng xấu hổ.

Khi Giang Trạch Dân tham dự buổi thảo luận với một đoàn đại biểu tỉnh Hồ Bắc trong một cuộc họp Quốc hội của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) vào ngày 12 tháng 3 năm 2003, ông ta nói: “Tôi từng là Viện trưởng Viện Nghiên cứu Nồi hơi Vũ Hán từ năm 1966 đến năm 1970. Đó là vào thời kỳ Cách mạng Văn hóa… phe tạo phản [trích dẫn nguyên văn] đã cẩn thận xem xét hồ sơ [1] cá nhân của tôi. Được thôi, vì điều đó đã chứng tỏ rằng tôi có một quá khứ trong sạch.”

Có lẽ những thính giả của Giang lúc ấy không hiểu được mục đích của ông ta là gì. Tại sao Giang – Tổng bí thư của ĐCSTQ – cần tự thanh minh về “quá khứ trong sạch” của mình?

Lý do nằm ở tiểu sử của Giang có vấn đề. Cha đẻ của ông ta, Giang Thế Tuấn (còn được biết đến với cái tên Giang Quan Thiên), là một tên Hán gian làm việc cho người Nhật khi họ chiếm đóng Trung Quốc. Trường đại học mà Giang từng theo học, Đại học Trung ương Nam Kinh, thực ra là được điều hành bởi quân chiếm đóng Nhật Bản. Ông ta đã bịa đặt ra rằng chú của ông ta đã nhận nuôi ông ta, mặc dù người chú của ông ta kỳ thực đã qua đời vào thời gian ấy. Khi được đào tạo ở Nga, có thời gian Giang đã chìm đắm trong một vụ bê bối tình ái với một phụ nữ người Nga và trở thành một điệp viên cho KGB. Và đây chỉ là một phần nhỏ của bức tranh lớn hơn nhiều, vì tiểu sử của Giang đầy rẫy những tình tiết xấu xa. Dựa trên cơ sở nào mà ông ta có thể tự nhận rằng mình có “quá khứ trong sạch”? Khi “phe tạo phản” kiểm tra hồ sơ của Giang, họ đã không thể biết về những rắc rối lớn trong quá khứ của Giang đã bị ông ta giấu diếm.

Vào năm 2005, Giang Trạch Dân đã phát hành ầm ĩ cuốn sách “Người đã thay đổi Trung Quốc”, một cuốn tiểu sử được xuất bản bằng cả tiếng Anh lẫn tiếng Trung, mà ông ta đã ủy thác cho một thương nhân người Mỹ tên là Robert Kuhn viết. Cuốn sách đã đại biểu cho nỗ lực công khai của Giang nhằm đánh bóng tiểu sử cá nhân vốn đã được ông ta che giấu từ lâu.

Quá khứ có câu “lạy ông tôi ở bụi này”. Trong cuốn sách tâng bốc và thêu dệt tiểu sử của Giang, người ta để ý rằng một từ đã được lặp đi lặp lại rất nhiều lần: yêu nước. Phần mô tả thời gian ông ta học ở Trường Đại học Trung ương Nam Kinh của quân Nhật, với đủ tính ly kỳ, có tựa đề là “Tôi là người yêu nước”. Nhưng lòng ái quốc là một vấn đề bổn phận của công dân và hầu như là thứ gì đó có sẵn, là sự trung thành với mảnh đất đã nuôi dưỡng bạn. Một người có tiểu sử trong sạch hiếm khi cần phô trương sự yêu nước của mình trước công chúng.

Một thực tế đơn giản là người cha đẻ của Giang đã chạy trốn và phục vụ cho quân chiếm đóng Nhật Bản. Trong nửa sau cuộc đời của Giang – thậm chí khi được kể trong cuốn tiểu sử mà Giang đã yêu cầu người khác viết – Giang nhanh chóng tránh nói về cha của mình. Điều duy nhất được đề cập đến trong cuốn tiểu sử của ông ta là, “Cha của Giang mất năm 1973.”

Giang tuyên bố bịa đặt rằng ông ta được nhận nuôi từ năm 13 tuổi bởi gia đình người chú, đảng viên cộng sản Giang Thượng Thanh; nhưng nó cho thấy việc nhận nuôi đã diễn ra ngay sau khi người chú qua đời. Giang Trạch Dân đã tốt nghiệp đại học vào tuổi 21. Và có lý do để thắc mắc: Ai đã nuôi Giang giữa lúc ông ta 13 tuổi và 21 tuổi? Con gái của Giang Thượng Thanh, Giang Trạch Huệ, đã nói với Kuhn rằng gia đình họ sống trong cảnh “vô cùng bần cùng và đói khổ” [2]. Nếu là như vậy, thì ai là người đã trả học phí để Giang Trạch Dân học tập tại một trường trung học dành cho quý tộc và Trường Đại học Trung ương Nam Kinh? Ai là người đã chi trả để Giang học nghệ thuật và âm nhạc trong những năm loạn lạc, chiến tranh và lạm phát phi mã ấy? Ai đã cho ông ta lái một chiếc xe jeep ngay sau khi tốt nghiệp đại học (theo như Kohn ám chỉ)? Nói cách khác, ai khác ngoài người bố đẻ đã hậu thuẫn cho ông ta? Liệu Giang Thượng Thanh, người đã qua đời bảy tám năm trước, thực sự có thể làm được vậy không?

Sự thực là cuộc đời của Giang Trạch Dân chẳng có quan hệ gì với người được coi là bố nuôi của ông ta. Chẳng phải là sau khi ĐCSTQ nắm quyền tại Trung Quốc thì Giang mới đột nhiên “nhớ lại” rằng ông ta có một liệt sĩ đảng cộng sản (người chú) trong gia đình? Ông ta đã phát minh ra một quá khứ, trong đó ông ta từ bỏ người bố đẻ và trở thành đứa con nuôi của một người đàn ông đã mất. Tuy nhiên, phần này của câu chuyện sẽ được chúng tôi trở lại sau.

Trên đây không phải là để ám chỉ rằng tính cách hay giá trị của một người chỉ là sản phẩm đơn thuần của thân thế người đó. Thay vào đó, nó gợi ý rằng chúng ta có thể bắt đầu vạch trần bản chất dối trá của Giang bằng cách xem xét xuất thân mà đa phần được che giấu và ngụy tạo, cũng như quá khứ của ông ta. Trong những năm gần đây, Giang còn đi xa hơn nữa khi nói bóng gió rằng cha ông ta – một tên Hán gian – thực ra là một anh hùng khi chiến đấu với quân Nhật. Theo như lời của người em họ ông ta, Trạch Huệ “Cả gia đình tôi đều theo cách mạng” [3] “Đàn ông nhà họ Giang đều đi đánh giặc” [4] và “Tất cả đều tham gia cách mạng, chiến đấu với quân xâm lược Nhật Bản và Quốc Dân đảng” [5]. Đối với những độc giả tại Trung Quốc mà không biết những tình tiết về thân thế gia đình họ Giang, những lời phát ngôn như vậy rất dễ lừa gạt họ.

Cái loa chính thức của chính quyền ĐCSTQ, Nhân dân Nhật báo, đã đưa tin vào ngày 11 tháng 12 năm 1999 rằng Giang Trạch Dân và lãnh đạo Nga lúc đó là Boris Yeltsin đã ký tại Bắc Kinh ba hiệp ước về biên giới Nga-Trung. Nhưng thật khó tin là cuộc họp như vậy lại không được đề cập tới trong cuốn tiểu sử do Kuhn viết, trong khi những thứ vặt vãnh như là Giang đã hát một bài hát nào đó lúc nào và ở đâu, và những chi tiết không quan trọng về cuộc họp của ông ta với các lãnh đạo nổi tiếng lại được ghi trong đó. Tại sao Kuhn bỏ qua một cuộc họp cấp nhà nước, và về một vấn đề quan trọng như ký hiệp ước biên giới với Yeltsin? Nguyên là trong cuộc họp đó, Giang đã công nhận về mặt ngoại giao tất cả các hiệp ước không công bằng [với Nga] từ cuối thời Mãn Thanh – những hiệp ước mà không chính phủ Trung Quốc nào trước đó đã thừa nhận. Thứ mà Giang đã ký hoàn toàn là một điều ước của kẻ bán nước, trong đó làm mất những vùng đất hợp pháp mà các thế hệ sau có thể phải đi đòi lại. Hiệp ước này nhượng cho Nga hơn 1 triệu km vuông đất màu mỡ – vùng đất rộng gấp hơn 30 lần đảo Đài Loan. Thấy rằng lực lượng người Hoa lớn mạnh trên toàn thế giới có thể bắt ông ta phải giải thích về hiệp ước bán nước, Giang Trạch Dân đã cố gắng tô vẽ lại quá khứ của mình. Ông ta không nhận ra rằng thủ đoạn đó chỉ là tự chuốc lấy thất bại mà thôi.

Trong cuốn sách của ông ta, Giang tự cho mình là một lãnh đạo có trách nhiệm, người quan tâm sâu sắc đến cuộc sống và sự đau khổ của người dân Trung Quốc. Nhưng hãy xem Giang đang làm gì trong trận lụt lớn ập vào Trung Hoa năm 1998. Vào đầu tháng 9, khi vô số người đang phải chiến đấu với nạn lụt và ở bên bờ vực của cái chết, thì Giang mời một số nam nữ diễn viên điện ảnh tới một bữa tiệc tại tổ hợp lãnh đạo Trung Nam Hải ở Bắc Kinh. Kuhn miêu tả nó là “ý tưởng của Giang Trạch Dân cho một thời điểm tốt đẹp”. Lúc gặp mặt, Giang đã hát song ca với một nữ ca sĩ những bản tình ca thời xưa của Nga, chẳng hạn như “Chiều Matxcơva” (Moscow Nights) [6]. Chúng tôi nghe kể rằng trong một lúc cao hứng, ông ta đã gia nhập đám đông và hát bài “Đại dương là quê hương tôi”. Kuhn tô vẽ nó thành “Giang đặc biệt”, người đã chớp lấy thời cơ, dường như “không còn sự cản trở của nghệ thuật” [7]. Thật là nực cười. Trong khi người dân Trung Quốc đang vật lộn trong vô vọng với sóng lũ, lụt lội như ở đại dương, thì Giang đang hát bài “Đại dương là quê hương tôi” với những người bạn gái ở Trung Nam Hải. Đáng buồn thay, nhưng cũng không có gì ngạc nhiên lắm khi Giang, một người sẵn sàng giấu diếm xuất thân Hán gian của ông ta để leo lên vị trí cao, ít quan tâm đến sinh mạng các công dân của mình.

Trong tác phẩm của Kuhn, Giang xuất hiện như một hình mẫu của lối sống đạm bạc và việc chiến đấu chống lại tham nhũng. Nhưng trong khi sự gia tăng của nạn tham nhũng bao trùm khắp Trung Quốc trong những năm vừa qua như mọi người đã biết, ít người nhận ra rằng gốc rễ của vấn đề không nằm ở ai khác ngoài Giang Trạch Dân cùng gia tộc ông ta. Nhờ đó những người con trai thiếu năng lực và bằng cấp của ông ta, đã xoay sở để xây dựng gia đình Giang trở thành một đế chế giàu có. Chúng là, người ta có thể nói, “Trung Quốc đệ nhất tham”.

Người ta đã đồn đãi từ lâu rằng Giang từng lặn lội giữa đêm tuyết rơi để đến đưa bánh sinh nhật cho bồ nhí của chủ tịch Thượng Hải lúc ấy là Lý Tiên Niệm. Lý đang có khách vào lúc ấy, nên Giang đã đứng đợi nhiều giờ đồng hồ ở bên ngoài để chứng tỏ lòng trung thành. Câu chuyện này là hoàn toàn kỳ lạ và không thể xác thực được. Vì một số lý do lạ lùng – có lẽ là một lương tâm tội lỗi? – trong tiểu sử của mình, Giang đã cố gắng bảo vệ việc đưa bánh, sự kiện thực sự đóng vai trò xác thực câu chuyện kỳ lạ này. Giang nói với độc giả rằng ông ta quan tâm tới lãnh đạo của mình và rằng chiếc bánh là “chiếc bánh cuối cùng trong khách sạn” [8]. Ông ta cũng tuyên bố rằng mục đích của ông ta là đạt đến sự đồng thuận và “xây dựng mối quan hệ với những người đúng đắn” [9]. Giả sử rằng chúng ta chấp nhận luận điểm này, thế thì nó cũng đúng như việc nói rằng Trung Quốc là không có tham nhũng và hối lộ – không phải mỗi hành động như thế chỉ là một vấn đề “quan tâm đến lãnh đạo” hay “đạt được sự đồng thuận và xây dựng mối quan hệ”? Điều này cũng tương đương với hợp pháp hóa tham nhũng.

Việc Giang Trạch Dân thăng quan tiến chức nhanh chóng trong nấc thang quyền lực phụ thuộc vào hai yếu tố. Thứ nhất là việc ngụy tạo câu chuyện về xuất thân trong gia đình liệt sĩ của ông ta, điều giúp Giang giành được đồng minh chính trị với Uông Đạo Hàm và Trương Ái Bình; cả hai người này sau đó đã liên tục thăng chức cho Giang. Điều đáng nói là hai người này là bạn của người chú của Giang. Thứ hai là khả năng của ông ta khi nịnh nọt thượng cấp và giành được cảm tình từ lãnh đạo Đảng. Cuối cùng thì hai điểm này đã cho phép Giang cướp được ngai vàng.

Sau khi giành được quyền lực, Giang Trạch Dân như mắc bệnh điên và bắt đầu làm những trò hề như nhảy múa và hát hò trong các cuộc giao lưu ngoại giao quốc tế. Những cử chỉ nực cười đi ngược lại các nghi lễ ngoại giao và sự tôn nghiêm dân tộc của Trung Quốc đó dường như nằm ngoài tâm trí của Giang. Thông qua chuyện phá hoại danh dự của Trung Quốc này, mà Giang giành được danh hiệu “thằng hề”. Trong một buổi gặp gỡ với Nhà vua Tây Ban Nha, ông ta đột nhiên rút ra một chiếc lược và tự chải đầu, để những người ở đó nhìn thấy rõ. Một dịp khác, khi ông ta được tặng Huân chương, ông ta không thể chờ được và chộp lấy chiếc Huân chương rồi tự đeo cho mình. Một lần, đang trong bữa tiệc quốc gia, ông ta thình lình mời một đệ nhất phu nhân người ngoại quốc khiêu vũ cùng. Ông ta nhảy lên từ chiếc ghế để hát bài “O Sole Mio,” vừa gõ bàn phím piano vừa dán cặp mắt đắm đuối vào các quý cô. Những trò hề của ông ta đã trở thành kho chuyện cười cho giới báo chí phương Tây. Chúng ta hãy xem cuộc gặp của ông ta với cựu Tổng thống Mỹ Bill Clinton. Giang đã viếng thăm Hoa Kỳ vào năm 1993 và 1997, và Clinton đã viếng thăm Trung Quốc vào năm 1998. Mỗi lần họ gặp nhau, Giang lại chơi một số nhạc cụ hoặc hát. Sau khi biểu diễn, ông ta lần nào cũng yêu cầu Clinton chơi kèn saxophone, điều mà Clinton từ chối một cách kiên quyết dù cho ông là một chuyên gia âm nhạc. Vào năm 1997, trong chuyến thăm Hoa Kỳ của Giang, một nhà báo đã nêu ra vấn đề Tây Tạng trong một cuộc họp báo. Giang đã bất ngờ hát to bài “Nhà ở nơi xa,” trước sự bối rối của khán giả. Điển hình là Giang thường nhắc lại bài diễn văn Gettysburg của cựu lãnh đạo Abraham Lincoln. Khi nói chuyện với các sinh viên, trả lời các cuộc phỏng vấn báo chí, hay thậm chí viếng thăm nước ngoài, Giang thường kiếm cớ để nhắc lại bài diễn văn này. Khi được yêu cầu, ông ta ngoan ngoãn nhắc lại nó; khi không được yêu cầu, ông ta cũng nhắc lại y hệt. Rất hiếm khi một nguyên thủ quốc gia làm điều như vậy ở đây.

Một điều còn phi lý hơn nữa là sự ám ảnh của Giang trong việc nói ngoại ngữ. Trong lần viếng thăm Châu Mỹ La-tinh, Giang – bất chấp tuổi tác và lờ đi các vấn đề quan trọng của quốc gia – đã dành vài tháng tham dự một lớp học tiếng Tây Ban Nha tăng cường. Giang hành xử như một thằng hề, và vì đã được ngai vàng một cách ngẫu nhiên, ông ta khó có thể thay đổi bản tính phô trương của mình. Trong bản tiếng Trung của cuốn tiểu sử, ông ta lý sự: “Nếu bạn không thể giao tiếp với người khác vì sự khác biệt ngôn ngữ, làm sao bạn có thể trao đổi ý tưởng hay đạt được thoả thuận?” Nhưng các lý lẽ thông thường chứng tỏ rằng kỹ năng ngôn ngữ vụng về khó có thể đủ để Giang có được sự giao tiếp thông minh và biểu cảm. Nhiều nguyên thủ quốc gia nói ngôn ngữ mẹ đẻ của họ và cần một thông dịch viên. Chẳng lẽ họ không thể đạt được những thoả hiệp trong các giao lưu ngoại giao?

Có lẽ là vì lãnh đạo của các quốc gia cộng sản điển hình là bảo thủ, cho nên nhiều lãnh đạo Tây phương coi nhân vật “dễ bị kích động” Giang Trạch Dân như một kẻ lập dị của Đảng, và thấy những màn biểu diễn của ông ta thật là khôi hài.

Các lãnh đạo có tài năng thực sự và tầm nhìn rộng không mất thời gian và công sức vào những trò nực cười như vậy. Lý do Giang Trạch Dân vui tính và “dễ bị kích động” là liên quan đến khả năng pha trò vặt vãnh của ông ta giống như chú hề trong một số vở kịch vui. Các chính trị gia phương Tây đã trải thảm đỏ hoan nghênh Giang, không phải vì tài năng của ông ta, mà là vì các hợp đồng trong túi ông ta và triển vọng khai thác thị trường tiêu dùng khổng lồ của Trung Quốc. Sự tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc trong những năm gần đây là nhờ tác động bởi hơn 500 tỷ đô-la vốn đầu tư nước ngoài, cùng với một lực lượng lao động rẻ mạt và vô cùng cần mẫn. Với sự đầu tư lớn như vậy, lao động rẻ, và nhiều nhân tài Trung Quốc tham gia, tất nhiên sản lượng phải cao. Nhưng đây không phải là công lao của Giang. Ngược lại, sự bất tài của Giang, tính kiêu ngạo, đố kỵ, và bảo thủ chính trị của ông ta đã cản trở sự cải cách chính trị, đi kèm với sự xuống cấp về giá trị đạo đức và nạn tham nhũng tràn lan. Hậu quả là dẫu nền kinh tế có phát triển thế nào, cái giá phải trả là sự cạn kiệt tài nguyên khổng lồ và sự suy thoái về sinh thái, môi trường và xã hội. Thực ra, sự thịnh vượng kinh tế bề mặt của Trung Quốc là sự đánh đổi với sự bền vững của môi trường. Giang đã làm hại tương lai của đất nước, để cải cách chính trị dậm chân tại chỗ nếu không muốn nói là thụt lùi, đưa tới sự lạm dụng nhân quyền và thiếu tự do tín ngưỡng. Khi đặt trong bối cảnh lịch sử, sự thống trị của Giang cuối cùng vẫn là ô nhục; ông ta đã nợ người dân Trung Quốc quá nhiều.

Khi Giang để cho Kuhn miêu tả mình, ông ta là cái gì đó của một bộ máy giải quyết vấn đề thông minh. Nhưng trên thực tế là khi một cuộc khủng hoảng ập tới – dù đó là lụt lội, đánh bom Đại sứ quán Trung Quốc ở Belgrade, bầu cử dân chủ ở Đài Loan, hay dịch bệnh SARS – Giang luôn luôn đẩy người khác lên tuyến đầu và hèn nhát đứng đằng sau. Khi dịch bệnh SARS lan rộng tại Bắc Kinh, Giang đã tham sống sợ chết và chạy trốn sang Thượng Hải để tỵ nạn. Nhưng trong bản tiếng Trung cuốn tiểu sử của mình, ông ta tuyên bố rằng ông ta đã “ở lại Thượng Hải cùng với dịch bệnh”, để che đậy sự trốn chạy của mình. Sự thật là, chỉ vài ngày trước chuyến bay, Giang đã ở Bắc Kinh để phát biểu tại Đại Lễ đường Nhân dân và Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân. Dựa trên cơ sở nào mà ông ta sử dụng câu “ở lại Thượng Hải cùng với dịch bệnh” để chạy tội cho chính mình?

Khi không lập bè kết phái hay đi công du nước ngoài để hát hò và thể hiện, điều Giang Trạch Dân để tâm nhất là việc cấp tốc đàn áp Pháp Luân Công. Khi mà thế giới bên ngoài biết rõ là Giang đã đi quá xa khi phân phát những cuốn sách nhỏ phỉ báng Pháp Luân Công trong các cuộc họp ngoại giao, không mấy người biết được sự phản ứng nhanh chóng của Giang sau vụ can thiệp vào tín hiệu truyền hình của các học viên Pháp Luân Công. Vào ngày 5 tháng 3 năm 2002, các học viên Pháp Luân Công đã can thiệp vào tám kênh truyền hình cáp tại thành phố Trường Xuân và chiếu đoạn phim dài 45 phút về cuộc đàn áp đối với họ. Để nhắc lại buổi tối ngày hôm đó, cuốn sách của Kuhn trích lời một người bạn thân của Giang tại Trường Xuân. Người đó nói rằng 10 phút sau khi sự can thiệp kết thúc (9 giờ 10 phút tối), Giang Trạch Dân đã nổi khùng và gọi điện: “Các phần tử Pháp Luân Công đang phát sóng trên hệ thống truyền hình cáp của Trường Xuân!” “Ai là bí thư Thành ủy hay thị trưởng thành phố?” [10] Sự phản ứng nhanh chóng của Giang với sự kiện này – xảy ra ở một nơi cách xa Bắc Kinh – và nỗ lực đe dọa của ông ta với người Bí thư Thành ủy, đã cho thấy rằng Giang thực ra là tổng chỉ huy của cuộc đàn áp Pháp Luân Công; ông ta là người chỉ thị trực tiếp về vấn đề này; và chính ông ta đã ra các mệnh lệnh. Ngược lại, khi Đại sứ quán Trung Quốc tại Belgrade bị đánh bom, Giang Trạch Dân đã ở đâu đó trong nhiều ngày mà không ai tìm thấy.

Trong cuốn tiểu sử của mình, Giang luôn cố gắng tự biện hộ cho bản thân, với thủ pháp là trích dẫn câu nói của chính mình, để tạo ra bất cứ hình ảnh nào mà ông ta thích và tô vẽ mọi thứ. Nhưng có quan chức Trung Quốc nào mà bị kết án tham nhũng lại chưa từng tuyên bố trong một cuộc họp rằng ông ta “chống tham nhũng”? Hành động có thể nói nhiều hơn cả lời nói. Điều này lại càng đúng với một nhân vật lẻo mép và thích hát hò như Giang Trạch Dân.

Việc Giang bất hiếu với người cha đẻ của mình, bất trung với các tổ chức, và thiếu trung thực với nhân dân đã khiến ông ta trở thành kẻ “bất nhân, bất nghĩa, bất lễ, bất trí, bất tín” [11] – một tên hề mang lại tai họa cho đất nước Trung Hoa. Việc cho phép Giang Trạch Dân hoang ngôn và viết lại tiểu sử chính là làm hại các thế hệ sau.

Tiểu sử của Giang, bạn có thể nói, tương ứng với cuộc đời của ông ta: đầy rẫy sự dối trá và mâu thuẫn.

Nếu thế hệ chúng ta có thể đảm trách sứ mệnh là nhân chứng của lịch sử, vậy thì hãy trả lại cho lịch sử những gì thực sự là của Giang Trạch Dân. Đây là trách nhiệm không thể thoái thác của tất cả chúng ta.



Ghi chú:

[1] Dưới sự thống trị của cộng sản tại Trung Quốc, những ghi chép về mỗi cá nhân, gọi là “lý lịch”, được lưu giữ bởi nhà cầm quyền, trong đó có chi tiết về những hành vi của mỗi cá nhân, nhận thức chính trị, xuất thân gia đình, việc xuất ngoại và nhiều thứ khác như là một phương tiện để giám sát và kiểm soát dân chúng.

[2] Robert Lawrence Kuhn, “Người đã thay đổi Trung Quốc: Cuộc đời và di sản của Giang Trạch Dân” (New York: Crown, 2004), tr 31.

[3] Kuhn, Người đã thay đổi Trung Quốc, tr 33.

[4] Sách đã dẫn, tr 32.
[5] Sách đã dẫn, tr 34.
[6] Sách đã dẫn, tr 366.
[7] Sách đã dẫn, tr 369.
[8] Sách đã dẫn, tr 125.
[9] Sách đã dẫn, tr 124.
[10] Sách đã dẫn, tr 490.

[11] Điều này trái ngược với những đức hạnh chính yếu của con người được miêu tả bởi Khổng Tử là: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.

Mọi thứ vì quyền lực: Câu chuyện có thật về Giang Trạch Dân ở Trung Quốc – Phần mở đầu

Mọi thứ vì quyền lực: Câu chuyện có thật về Giang Trạch Dân ở Trung Quốc – Phần mở đầu
http://vietsoh.net/news/2010/01/24/moi-thu-vi-quyen-luc-cau-chuyen-co-that-ve-giang-trach-dan-o-trung-quoc-phan-mo-dau.html

Để can nhiễu tiến trình Chính Pháp, cựu thế lực đã nhào nặn nên một nhân vật, một thực thể sở hữu toàn đặc điểm xấu có nguyên thần từ cửa Vô Sinh ở Ngục Vô Gián.

Oán khí nghìn năm từ triều Đường kết thành một quái thai tà ác
Vào năm Vũ Đức thứ 9 – triều đại nhà Đường năm 626 sau Công nguyên – Hoàng Đế khai quốc, Cao Tổ Lý Uyên, với sự phò tá của người con trai thứ Lý Thế Dân đã bình định thiên hạ khi 18 vương hầu tạo phản, tiêu diệt sạch 72 đạo quân và cuối cùng được an hưởng phú quý với giang sơn thống nhất. Cao Tổ có bốn người con trai: Kiến Thành, Thế Dân, Nguyên Cát, và Nguyên Bá. Trong khi Nguyên Bá chết trẻ, Kiến Thành, Thế Dân và Nguyên Cát đã tới tuổi trưởng thành và được phong danh hiệu lần lượt là, Ẩn Vương, Tần Vương và Tề Vương. Nguyên Cát đã tư thông với hai phi tần được sủng ái của Cao Tổ là Trương Diễm Tuyết và Doãn Sắt, rồi bị Tần Vương khám phá ra. Tuy sự việc chưa bị vỡ lở nhưng Nguyên Cát vẫn mang tâm oán hận đối với Thế Dân. Theo những quy tắc truyền ngôi từ xưa để lại, khi Cao Tổ qua đời, người con trai cả là Kiến Thành sẽ lên kế vị. Nhưng Thế Dân có công lao vô cùng to lớn vì gần như đã một mình gây dựng giang sơn Đại Đường. Cao Tổ thường khen ngợi Thế Dân, và điều này khiến Kiến Thành và Nguyên Cát vô cùng đố kỵ.

Và rồi, Nguyên Cát, vốn là một công tử kiêu ngạo và luôn tự cho là đúng, đã từ lâu thèm muốn ngai vàng. Kiến Thành thì nhu nhược và khá bất tài. Vì đố kỵ với Tần Vương, Nguyên Cát âm mưu ban đầu mượn Kiến Thành để trừ khử Tần Vương, rồi sau sẽ trừ khử nốt Kiến Thành.

Một ngày nọ, công chúa Bình Dương đột nhiên bệnh chết. Tất cả văn võ bá quan và các thành viên trong gia tộc đều tới tống táng. Nguyên Cát giả vờ bày tiệc rượu và mời Tần Vương đến uống rượu cùng, trong rượu bỏ vào chất kịch độc. Tần Vương tính tình khoáng đạt, chỉ tưởng rằng Kiến Thành và Nguyên Cát muốn tạ tội nên đã thản nhiên không hề nghi ngờ và nâng ly rượu lên. Nhưng như câu nói xưa, “Vương giả bất tử“, khi Tần Vương vừa đưa rượu lên miệng uống thì một chú chim én bay ngang qua, thả phân xuống làm bẩn cả ly rượu lẫn y phục của Tần Vương. Khi Tần Vương bỏ đi thay y phục thì đột nhiên cảm thấy một cơn đau xé ruột nên bèn vội vàng trở về cung, về đến nơi thì bị miệng nôn trôn tháo. Sau đó Tần Vương nảy sinh lòng nghi ngờ, đoán rằng trong rượu có độc. Vua Đường sau khi nghe chuyện, sợ rằng Tần Vương và hai người huynh đệ không thể dung hòa với nhau được nữa, bèn cử Tần Vương tới Lạc Dương để cai quản miền Đông tỉnh Thiểm Tây, dựng lập lá cờ thiên tử, giống như Lương Hiếu Vương trong triều Hán năm xưa.

Kiến Thành và Nguyên Cát vô cùng sợ hãi, biết rằng Tần Vương mưu lược hơn người, ôm ấp hoãi bão lớn như biển cả, văn thần dưới trướng có Tôn Vô Kỵ, Từ Mậu Công, Lý Thuần Phong, Phòng Huyền Linh, Đỗ Như Hối, võ tướng có Tần Thúc Bảo (Tần Quỳnh), Trình Giảo Kim, Uất Trì Kính Đức, Lý Tĩnh. Tần Vương khi giương cao ngọn cờ nghĩa đã thu phục được nhân tâm trong thiên hạ và dường như không ai có thể ngăn cản. Bằng một độc kế khác, Kiến Thành và Nguyên Cát âm mưu điều động những đại tướng của Tần Vương đi thảo phạt quân Đột Quyết. Tần Vương thấy thế sự đã nguy cấp bèn đem những chuyện uế loạn cung đình của Kiến Thành và Nguyên Cát nói với Cao Tổ. Ngày hôm sau, Cao Tổ truyền lệnh cho Kiến Thành và Nguyên Cát vào cung đối chất xem ai đúng ai sai. Kiến Thành và Nguyên Cát không những không tuân mệnh mà còn mang khoảng 500 quân mai phục tại Huyền Vũ Môn, chỉ đợi Tần Vương đến để hạ lệnh sát thủ. Không ngờ Tần Vương đã sớm có phòng bị, mang theo áo giáp cùng quân binh tới. Kiến Thành, Nguyên Cát vừa trông thấy Tần Vương liền bắn loạn 3 mũi tên, nhưng Tần Vương đều tránh được. Tần Quỳnh bắn trả một mũi tên giết chết Kiến Thành. Nguyên Cát muốn chạy trốn nhưng đã bị giết chết bởi một mũi tên từ Uất Trì Kính Đức. Câu chuyện này vốn nổi tiếng trong lịch sử là “Sự biến Huyền Vũ Môn.”

Sau khi Nguyên Cát chết, linh hồn độc ác của hắn bị hạ xuống địa ngục để hoàn nghiệp. Diêm Vương biết chuyện hắn thông gian với sủng phi của phụ hoàng, giết hại hôn thê của Thế Dân, làm chuyện loạn luân, bỏ độc vào rượu hại Tần Vương, bắn cung ám sát Tần Vương, đều là những tội ác vi phạm luân thường, đã là thập ác bất xá. Vì thế ông đã tống Nguyên Cát vào ngục Vô Gián, đả nhập hắn vào cửa Vô Sinh. Một ngàn năm sau, cái nguyên thần từng là Nguyên Cát kia đã tiêu mất, không còn hình hài sinh mệnh tiên thiên, không có tư tưởng hoàn chỉnh, duy chỉ còn một chút khí của sự đố kỵ và hận thù. Nhưng về vấn đề này chúng tôi sẽ nói sau.

Ngay khi lên ngôi, Thế Dân xưng là Thái Tông Hoàng đế, mở ra thời Trinh Quán giàu có và thịnh vượng (627- 649 sau Công nguyên). Thái Tông nhân đức như trời bể và luôn thương xót cho bách tính. Việc kế vị ngai vàng của Thế Dân là thuận theo Thiên ý, hợp với lòng dân và ban phúc cho tất cả.

Vào năm Trinh Quán thứ 22, một nhà sư tên là Huyền Trang đã trở về từ sau một chuyến hành hương sang Ấn Độ để thỉnh kinh Phật. Thái Tông đã cho một đoàn tuỳ tùng gồm hàng trăm văn võ bá quan tới nghênh tiếp tại cầu Chu Tước. Sau đó, để kỷ niệm sự kiện này, Thái Tông đã viết cuốn “Đại Đường Tam Tạng Thánh Giáo Tự“. Thái Tông băng hà vào năm Trinh Quán thứ 23. Suốt thời gian trị vì, Thái Tông luôn bảo hộ Phật Pháp, hoằng dương cả Đạo giáo lẫn Nho giáo. Thái Tông là người đầy đủ cả nhân, nghĩa, trí, dũng, thanh tâm quả dục, tiết chế bản thân và rất yêu thương dân chúng. Ông là người có lai lịch phi phàm, tuyệt không phải là điều người thường có thể biết. Khi chuyển sinh sau này, Thái Tông vẫn tự nhiên mang theo chính khí, lúc là bậc Đế vương, khi làm vua, lúc là một viên tướng, khi là một văn nhân, lúc thì là tổ sư của một môn võ thuật.

Người ta nói rằng ngàn năm sau, đức Chuyển Luân Thánh Vương sẽ tới nhân gian, lấy danh hiệu Phật Di Lặc để truyền rộng Đại Pháp và cứu độ tất cả chúng sinh. Nhưng để can nhiễu sự việc Chính Pháp và cứu độ chúng sinh dưới danh nghĩa “hiệp trợ”, cựu thế lực của vũ trụ đã tạo ra một thực thể xấu xí có hình người nhưng cực kỳ vô chính niệm và lý tính, mang những đặc điểm như ngu xuẩn, độc ác, bại hoại, gian dối, thô tục, tự phụ, đố kỵ, và hèn nhát. Cựu thế lực đã sử dụng hắn với danh nghĩa “phù hợp” với lý tương sinh tương khắc để “khảo nghiệm” các đệ tử Đại Pháp.

Nhân vật lố bịch được chọn cho một vai trò như vậy tất nhiên rồi sẽ bị tiêu huỷ, vì nó đã phạm phải tội ác tày trời từ vạn cổ, sự tà ác của nó đã thấu lên tận trời xanh. Ai có thể đóng một vai như vậy đây? Không có ai khác ngoại trừ kẻ đang ở Ngục Vô Gián, kẻ đã mang sự oán hận sâu đậm với người sẽ hạ thế và cứu độ chúng sinh. Cựu thế lực đã phát hiện ra tên ác nhân Lý Nguyên Cát thời Đường Cao Tổ, cuối cùng chỉ còn lại những dấu vết của tà khí từ lòng đố kỵ, và đã dẫn nó chạy vào nhân gian . Thứ tà khí đó đã được dẫn nhập vào đám âm khí nặng nề trong một ngôi mộ.

Tại ngôi mộ đó có một con cóc đã ẩn nấp từ rất lâu. Khi nó mở miệng và chuẩn bị kêu thì thứ tà khí ngàn năm kia lập tức bị hút ngay vào trong bụng. Nguyên thần con cóc lập tức bị trục xuất khỏi thân thể và chuyển sinh đâu đó, trong khi thứ tà khí kia trở thành tà linh của con cóc. Một vài năm sau, con cóc này chết, và cái thứ tà linh chi khí mang hình dạng con cóc kia đã chuyển sinh thành người. Nó trở thành Giang Trạch Dân.



Truyền thống người Trung Quốc vẫn tin tưởng rằng nếu có cái gì đó được truyền thừa, bằng hình thức luân hồi hoặc phụ thể (động vật chiếm hữu cơ thể người), với một dạng năng lượng sống được gọi là khí – một lực sống mang sinh khí đến thế giới – thì khí này có thể hình thành dạng người.

Ban biên tập Thời báo Đại Kỷ Nguyên
Ngày 5 tháng 7 năm 2005

Ghi chú của người dịch:

- Đột Quyết (Göktürk): là tên một dân tộc du mục thuộc các dân tộc Turk ở vùng núi Altai và cũng là tên gọi một hãn quốc hùng mạnh ở Trung Á thế kỷ 6 và 7.

- Thập ác bất xá: Mười tội ác không thể tha.

- Ngục Vô Gián: Tầng sâu nhất của địa ngục. Người ta nói rằng một khi đã vào Ngục Vô Gián là vĩnh viễn bị đày đọa ở đó, không ra được nữa.

- Chuyển Luân Thánh Vương: Hay còn gọi là Pháp Luân Thánh Vương, là người mà Phật Thích Ca Mâu Ni nói trong dự ngôn là sẽ hạ thế vào thời Mạt Pháp để cứu độ tất cả chúng sinh.

- Tà linh chi khí: Linh hồn tà ác được hình thành từ một đám tà khí.