Thứ Ba, 1 tháng 9, 2015

Quyền lực bằng mọi giá: Chuyện đời thật của Giang Trạch Dân – Chương 3 – Phần 1

Bài viết này là phần 8 trong loạt bài gồm 8 phần, tựa "Quyền lực bằng mọi giá"

Quản đốc đục khoét có nghề, một bước lên mây cậy tài mồm mép (1956 – 1985)

Ngày tàn của Giang Trạch Dân đang đến gần. Vấn đề chính là lúc nào, chứ không phải là nếu như, cựu lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) sẽ bị bắt. Giang chính thức lãnh đạo Trung Quốc trong hơn một thập kỷ, và thêm một thập kỷ đứng đằng sau chỉ đạo các sự kiện. Trong hai thập kỷ này, Giang đã làm hại Trung Quốc không kể xiết. Bây giờ thời đại của Giang đã đến hồi kết thúc, Đại Kỷ Nguyên công bố lại loạt bài “Quyền lực bằng mọi giá: Chuyện đời thật của Giang Trạch Dân,” lần đầu công bố phiên bản tiếng Anh năm 2011. Qua đó độc giả có thể hiểu rõ hơn về sự nghiệp của nhân vật then chốt đối với Trung Quốc hiện đại này.
(Luis Novaes/Epoch Times)
(Luis Novaes/Epoch Times)

Biệt hiệu đậm “chất Tây”: Krikun

Năm 1956, là thời gian mà Giang Trạch Dân đang ở độ tuổi lập thân: 30 tuổi. Đầu năm, Giang Trạch Dân đã kết thúc kỳ thực tập tại công xưởng ô tô Stalin và quay trở về thành phố Trường Xuân ở phía đông bắc Trung Quốc, tham gia vào việc hoạch định xây dựng xưởng sản xuất ô tô đầu tiên ở thành phố Trường Xuân để chuẩn bị đưa vào sản xuất trong mùa hè năm đó. Chức vụ đầu tiên của Giang Trạch Dân là quản đốc Phòng Động lực. Khi chiếc ô tô đầu tiên mang nhãn hiệu Giải Phóng được sản xuất ra cũng là lúc Giang được cất nhắc lên làm Phó trưởng phòng, cấp trên của Giang là một kỹ sư người Liên Xô và Trưởng phòng Trần Vân Cù. Ông Trần Vân Cù là một chuyên gia nhưng không phải là Đảng viên, nhờ đó mà Giang Trạch Dân mới được leo lên ghế Bí thư Chi bộ Đảng.
Trong suốt chặng đượng hoạn lộ của mình, Giang Trạch Dân đã thu được không ít lợi ích nhờ vào tư cách Đảng viên. Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) sau khi chiếm chính quyền, trong vấn đề nhân sự vẫn luôn nhất quán trọng dụng cán bộ Đảng, trước giờ họ vẫn không tin tưởng những kỹ thuật viên nằm ngoài Đảng và phần tử tri thức. Giang Trạch Dân vốn không có lý lịch hoạt động cách mạng, theo lý mà nói còn là một nhân tài Hán gian được Đại học Trung ương của Ngụy quyền đào tạo ra, lại còn phục vụ cho Quốc dân đảng trước khi ĐCSTQ chiếm đóng Thượng Hải, cùng lắm cũng chỉ là một đối tượng đang được theo dõi và cải tạo. Nhưng Giang đã lợi dụng thân phận liệt sĩ của người chú Giang Thượng Thanh, dựng nên câu chuyện làm con nuôi, tự tạo thành công cho mình “tấm kim bài” mang tên “con liệt sĩ” rồi trở thành cán bộ mà ĐCSTQ tin dùng. Như vậy Giang đã trở thành “của hiếm” trong ĐCSTQ: vừa là Đảng viên lại là nhân viên kỹ thuật có trình độ cao.
Cũng tại Trường Xuân, Giang lại làm quen được với một “đồng hương” cũng đến từ Giang Tô tỉnh Chiết Giang, tên Thẩm Vĩnh Ngôn. Cả hai trở thành bạn bè, đến tối lúc không có việc gì làm liền tụ lại tán gẫu. Giờ nghỉ giải lao cũng thường tụ lại chơi bóng bàn, nghe nói Giang thắng thì ít mà thua thì nhiều. Hễ mỗi lần thua, Giang liền lầm bầm mấy câu tiếng Nga gì đó, sau đó ngồi qua một xó.
Quảng cáo
Trên phương diện kỹ thuật, các đồng sự phải công nhận rằng nghiệp vụ của Giang không tốt. Nhưng Giang lại có một cái bản lĩnh, nói theo ngạn ngữ của người Đông Bắc thì là “giặc có thể vui thì giặc có thể hát”, mọi công phu của Giang đều mọc trên đằng miệng. Trong công xưởng ấy, quan hệ giữa Giang và chuyên gia người Nga nọ là khăng khít nhất, cả hai có rất nhiều điểm thống nhất trong phương diện “dân ca nước Nga”. Cái chức trách của Giang không phải nằm ở việc khắc phục những khó khăn, hóc búa trong kỹ thuật, mà là dẫn các kiểu bầu đoàn đại biểu đi tham quan xưởng. Cho nên các đồng sự đã đặt cho Giang một biệt hiệu với ý nghĩa châm biếm đậm chất Tây: Krikun.
Krikun vốn là một nhân vật của tiểu thuyết gia Liên Xô Aleksandr Evdokimova , hắn ta là một người chuyên đưa ra những tuyên bố đặt điều, thổi phồng và vô nghĩa, lại thích đục khoét, đến lúc đối diện với công việc thực chất thì bị lộ tẩy. Cái ngoại hiệu này không chỉ là lời bình người ta đặt cho Giang, mà cũng là lời bình cho cung cách của các cán bộ do ĐCSTQ đề bạt.
Những khẩu hiệu mà Trung Cộng ra sức hô hào hầu như trên cả tuyệt vời, từ “Thiên đường Xã hội Chủ nghĩa tại nhân gian” cho đến “Bốn hiện đại hóa”, từ “ấm no” cho đến “ba đại biểu”, đến giờ vẫn còn cái bánh vẽ “xã hội hài hòa”. Bản thân Trung Cộng không hề sản xuất ra thứ gì, lúc đụng phải nguy cơ thì đem máu me bạo lực ra dọa nạt dân chúng, nguy cơ qua rồi thì dựa vào lường gạt, dối trá để tồn tại. Vì lẽ đó nên những thành phần cán bộ thạo việc ăn to nói lớn, hư cấu huênh hoang luôn không thể thiếu được trong cơ cấu Đảng. Vào năm 1958, Mao Trạch Đông đã phát khởi cuộc vận động “Đại nhảy vọt”, miệng nói toàn những lời đao to búa lớn lên đến tận mây xanh, chỉ cần lật ra những bản tin báo chí chính phủ lúc đó thì đã tìm được một mớ:
Vào ngày 8 tháng 6 năm 1958,  các mặt báo bắt đầu “phóng vệ tinh”: năng suất tiểu mạch bình quân của tỉnh Hà Nam là 2.105 cân trên một mẫu (mỗi cân = 1/2 kg) ; đến ngày 18 tháng 9, tờ Nhân dân Nhật báo lại phóng thêm một “vệ tinh” khác: Hợp tác xã nông nghiệp Hồng Kỳ ở Hoàn Giang, Quảng Tây đạt năng suất lúa gạo 130.434 cân. Bộ Nông nghiệp công bố sản lượng nội trong vụ hè tháng 7 đã vượt 69% so với năm ngoái, tổng sản lượng vượt cả nước Mỹ những 4 tỷ cân. Nền công nghiệp ô tô cũng phát sinh bước nhảy vọt lớn, vỏn vẹn trong vòng nửa năm, trên toàn quốc đã nghiên cứu chế tạo được hơn 200 loại ô tô, không những chế tạo được ô tô mà còn sử dụng động cơ chữ V, chuyển hướng động lực bằng áp suất chất lỏng, các kỹ thuật biến tốc tự động tiên tiến, thúc đẩy nền công nghiệp ô tô Trung Quốc lên trình độ tiên tiến trên toàn thế giới.
Bên trong nền công nghiệp ô tô “trình độ tiên tiến trên toàn thế giới” đó, có cả những sản phẩm mới được đội ngũ kỹ thuật viên như Giang Trạch Dân “sáng tạo” để cho xong nhiệm vụ, như “bộ bơm khí bằng vật liệu gỗ”, “thân xe bằng tre”. Với xuất thân từ ngành kỹ thuật, Giang đương nhiên biết rất rõ những sản phẩm đầy tính “sáng tạo” ấy chẳng qua chỉ để lừa người cho vui chứ thực chất chả có một tí công dụng nào. Nhưng Giang cũng biết rằng, nhất thiết phải làm vậy mới có thể tranh thủ sự nhất trí với Đảng, mới có thể trèo lên cao. Ngay sau khi hiểu ra được điểm này, Giang thường xuyên sáng tác ra đủ mọi lý do để cổ động cấp dưới hoàn thành những nhiệm vụ hoang đường mà Đảng quang vinh giao phó.
Quả nhiên công lao khó nhọc mà Giang bỏ ra cũng không uổng phí. Trong cái thời “đại nhảy vọt” mà người ta chỉ làm việc dựa trên sự dối trá ấy, đến cuối năm 1958 đầu năm 1959, xưởng ô tô thành phố Trường Xuân tiến hành trùng tổ, Phòng Động lực lại trở thành Phân xưởng Động lực, Giang Trạch Dân vì có công lừa người, đã đáp ứng được cái khẩu vị của Đảng, rất tự nhiên được bước lên một tầm cao mới, trở thành Xưởng trưởng của phân xưởng mới.

Những tháng năm chết đói

Thành quả của cuộc “đại nhảy vọt” đã mang lại những tai ương khủng khiếp cho nền kinh tế, kèm theo nạn đói đầy chết chóc. Bởi vì nông dân bị cưỡng chế phải gia nhập vào “công xã nhân dân” để luyện gang thép, diện tích đất canh tác lương thực không có người trồng trọt, cũng không có người thu hoạch. Nhà nhà trữ thóc, người người trữ gạo thì lại bị tịch thu xung vào công xã, nấu thành những nồi cơm to cùng nhau ăn cho bằng hết, ở nông thôn đã bắt đầu xuất hiện tình trạng người chết do bị cắt lương thực. Rất nhanh sau đó, nạn đói  từ những địa phương lẻ tẻ lan ra toàn quốc, từ nông thôn phát triển đến thành thị. Các chuyên gia ước tính trong vòng khoảng 3 năm từ 1959 đến 1961, đã có khoảng 20 ~ 50 triệu người chết đói. Rất nhiều vùng vì nạn đói nghiêm trọng đã dẫn đến thảm kịch “bán con chạy gạo”. Khu Tín Dương, tỉnh Hà Nam, huyện Nhân Thọ, tỉnh Tứ Xuyên… đều có hiện tượng cả một xóm, cả một nhà chết đói, một làng mười nhà chết chín.
Vùng Đông Bắc nhờ điều kiện đất rộng người thưa, nên cũng tạm qua được cơn nhân họa. Mặc dầu vậy, công nhân của xưởng chế tạo ô tô cũng ăn không chắc bụng, những nhân công làm việc nặng, lao lực mỗi tháng cũng chỉ được khẩu phần có 30 cân, tất cả được mua bằng tem phiếu. Giang Trạch Dân cũng cảm thấy những tháng ngày ở Đông Bắc thật gian nan.
Trở lại năm 1956, không lâu sau khi Giang kết thúc chuyến thực tập ở Liên Xô trở về công xưởng, Vương Dã Bình cùng hai đứa con thơ cũng từ Thượng Hải dọn đến Trường Xuân. Nếu so với người khác, điều kiện sinh hoạt gia đình chàng Krikun cũng không tệ chút nào, ngoại trừ thu nhập của Giang, Vương Dã Bình cũng có được khoản lương khá lý tưởng. Giang cũng được phân cho một căn nhà chung cư tầng 4 với 3 phòng, trong nhà lại có hệ thống lò sưởi trung tâm kiểu Liên Xô, bếp gas, nhà vệ sinh chuyên biệt, lại còn có cửa kính hai lớp đặc biệt thích hợp với thời tiết lạnh lẽo ở Đông Bắc. Ấy là cuộc sống trong mơ với nhiều người Trung Quốc vào thời điểm bấy giờ. Mặc dù giá cả lúc ấy rất rẻ mạt nhưng hầu như người ta ai ai cũng chỉ mơ có được một bữa no bụng với bánh bao hấp. Nhưng ngay cả trong những năm tháng đói khổ, Giang Trạch Dân vẫn ăn thịt gà mỗi ngày.
Sự đầy đủ về vật chất cũng không khiến một người vốn quen tập quán nơi cực nam dòng sông Dương Tử như cô Vương Dã Bình vui vẻ cho được. Một năm chẳng có được mấy ngày để diện váy đẹp, mà phần lớn thời gian đều phải khoác những áo bông, quần bông nặng nề thô kệch. Khốn nỗi cô Vương vốn là người ưa ăn diện, nên cô càng hậm hực đối với Giang, thầm trách Giang sao lại bắt cả nhà dọn tới cái chốn khỉ ho cò gáy, ngày giá đêm băng này.
Uông Đạo Hàm phái Giang đi thực tập ở Liên Xô là để nâng đỡ hậu bối đồng thời cũng là trả nghĩa bạn bè, nhưng bất chợt lại bắt Giang rời Thượng Hải để đến Trường Xuân công tác. Nguyên là Giang cũng không nỡ bỏ chốn phồn hoa Thượng Hải, nhưng nhìn xa trông rộng một chút thì nơi đây cũng không tệ, ít ra cái lối vu hồi trên đường quan lộ vẫn không mờ mịt lắm.
Vương Dã Bình vốn sinh trưởng tại Thượng Hải, là cháu gái bên phía bà thím Vương Giả Lan, vợ của Giang Thượng Thanh (vốn là chú sáu của Giang), tốt nghiệp Học viện Ngoại ngữ Thượng Hải, nhỏ hơn Giang hai tuổi. Chàng tài tử phong lưu Giang Trạch Dân sau khi chuyển từ mái trường Trung ương Ngụy quyền sang Đại học Giao thông có ghé qua nhà họ Vương mấy lần, cũng có chút “ý tứ như thế” với Vương Dã Bình, cả hai tuy rằng “tình trong như đã” nhưng “mặt ngoài” thì vẫn còn e. Đến năm 1949, nhận thấy Đảng Cộng sản chắc chắn rồi sẽ chiếm lấy thiên hạ, Giang Trạch Dân đột nhiên thừa cơ xuất động, cuối cùng cũng đưa được Vương Dã Bình “về dinh”.
Bà thím Vương Giả Lan đối với ông thân sinh của Giang Trạch Dân (tức Giang Thế Tuấn) vốn có một chút oán khí. Lúc Giang Thượng Thanh chết, Đảng Cộng sản vẫn bị coi là “Cộng phỉ”, anh cả Giang Thế Tuấn vẫn luôn khuyên nhủ chú sáu nên thoát khỏi đám “Cộng phỉ”, vì muốn tránh liên lụy nên ông anh cả luôn cố gắng hạn chế qua lại với chú sáu. Giang Thượng Thanh chết rồi, Giang Thế Tuấn cho rằng ấy là do tự thân chuốc lấy. Bởi thế nên mặc dầu ông anh cả vẫn hương hỏa đề huề cho chú sáu nhưng chả hề đả động tiếp tế gì cho mẹ con bà thím Vương Giả Lan. Cuộc sống của một quả phụ ở tuổi 28, trên tay là hai đứa con gái, đứa 3 tuổi, đứa 1 tuổi quả thật vô cùng gian khổ. Người con gái thứ hai Giang Trạch Huệ, đã trả lời phỏng vấn với Kuhn bằng một câu rất thật lòng rằng: “Trong nhà chẳng có bao nhiêu lương thực cả, có lúc đến thứ ăn được cũng không còn lại chút nào”.
Sau khi Đảng Cộng sản lên nắm chính quyền, hình thế bỗng dưng đảo ngược, Giang Thế Tuấn chẳng ngóc đầu lên nổi, đời sống thê nhi trở nên ảm đạm. Giang Trạch Dân vì muốn chăm chắm chụp cho được cái bảng hiệu “Cô nhi liệt sĩ”, liền tiến thêm một bước chèo kéo quan hệ với phía gia đình bà thím họ Vương. Liền đó, bà Vương lúc trở về thăm mẹ đẻ ở Thượng Hải lại phát hiện Giang Trạch Dân đang cặp kê với đứa cháu gái. Bà nào hay biết tâm tư của Giang Trạch Dân, vẫn cứ nghĩ rằng cậu cháu quý hóa chắc không giống như ông bố Hán gian vô tình vô nghĩa của nó nên ra sức tán đồng cho mối lương duyên ấy. Tháng 12 năm 1949, buổi lễ Quốc khánh của ĐCSTQ trôi qua chưa được hai tháng, Giang Trạch Dân đã cấp tốc kết hôn với Vương Dã Bình. Trong cuộc hôn nhân này, tấm kim bài hư cấu mang chữ “Cô nhi liệt sĩ” đã in sâu vào trước trán của Giang rồi.
Bà Vương Giả Lan tìm được công ăn việc làm tại một ngân hàng ở Thượng Hải, về hưu lại có đứa con gái lớn Giang Trạch Linh chăm sóc bên cạnh được hơn 20 năm. Lúc Giang Trạch Dân lên chức Thị trưởng Thượng Hải chưa đầy một tháng, bà Vương đã qua đời tại Dương Châu, thọ 74 tuổi.
(còn tiếp)

Quyền lực bằng mọi giá: Chuyện đời thật của Giang Trạch Dân – Chương 2 – Phần 3

Bài viết này là phần 7 trong loạt bài gồm 8 phần, tựa "Quyền lực bằng mọi giá"

Điệp viên KGB
img-real-story-jiang-zemin-cap02b

Ngày tàn của Giang Trạch Dân đang đến gần. Vấn đề chính là lúc nào, chứ không phải là nếu như, cựu lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) sẽ bị bắt. Giang chính thức lãnh đạo Trung Quốc trong hơn một thập kỷ, và thêm một thập kỷ đứng đằng sau chỉ đạo các sự kiện. Trong hai thập kỷ này, Giang đã làm hại Trung Quốc không kể xiết. Bây giờ thời đại của Giang đã đến hồi kết thúc, Đại Kỷ Nguyên công bố lại loạt bài “Quyền lực bằng mọi giá: Chuyện đời thật của Giang Trạch Dân,” lần đầu công bố phiên bản tiếng Anh năm 2011. Qua đó độc giả có thể hiểu rõ hơn về sự nghiệp của nhân vật then chốt đối với Trung Quốc hiện đại này.
Năm 1949, quân Trung Cộng tiến nhập vào Thượng Hải. Vào thời điểm đó, công xưởng thực phẩm nơi Giang Trạch Dân làm việc lại được đổi tên thành Xưởng thực phẩm Ích Dân số 1, thế là Giang lại nghiễm nhiên trở thành kỹ thuật viên của Trung Cộng. Cán bộ thị sát xưởng Ích Dân là Uông Đạo Hàm – nhân vật sau này được gọi là “Hồng Triều Đế Sư”. Vợ của Uông là Chủ nhiệm xưởng thực phẩm này.
Một người luôn sẵn lòng xu nịnh như Giang đương nhiên không muốn để vụt mất cơ hội tạo dựng các mối quan hệ với Uông Đạo Hàm. Trước tiên, Giang lấy thân phận cựu sinh viên Đại học Giao Thông Thượng Hải để lân la tiếp cận Uông. Có lần đang lúc nói chuyện Giang mới biết được Uông có sở thích thơ phú và từng là cấp dưới của Giang Thượng Thanh – người chú của Giang. Giang liền giở chiêu bài lợi hại nhất, khẳng định mình chính là “con nuôi của Giang Thượng Thanh”. Ông ta còn mượn câu thơ “Thập niên sinh tử lưỡng mang mang” trong bài “Giang Thành Tử” của nhà thơ Tô Đông Pha sáng tác tiếc thương người vợ quá cố. Câu thơ ấy đã khiến Uông thở dài xúc động vì khi đó Giang Thượng Thanh, người mà Uông đã chịu nhiều ảnh hưởng, qua đời đã được đúng 10 năm. Chiến thuật tâm lý của Giang Trạch Dân đã thu được đại thành công. Uông Đạo Hàm vốn là một người thấu tình đạt lý, lại biết ơn Giang Thượng Thanh vì đã hỗ trợ và dìu dắt, thế nên đã tin ngay vào những lời của Giang Trạch Dân. Uông lập tức quyết định đề bạt Giang Trạch Dân. Điều này càng làm gia tăng mạnh mẽ niềm tin của Giang Trạch Dân vào việc sửa đổi lý lịch gia đình. Kể từ thời điểm đó, Uông Đạo Hàm đóng vai trò như một nhân chứng cho quá khứ giả tạo của Giang, ít nhất thì một nửa con đường sự nghiệp quan trường của Giang là do Uông Đạo Hàm bồi đắp.
Khác với một cán bộ bình thường, Giang Trạch Dân phải cẩn trọng trong cách đối đãi các mối quan hệ với bốn bên. Ông ta phải duy trì quan hệ tốt với cấp dưới của mình vì sợ rằng những người này sẽ chĩa những cáo buộc hoặc tố cáo ông ta. Ông ta phải duy trì tốt các mối quan hệ với những người có quyền lực cao hơn vì sợ rằng những người này sẽ có ấn tượng xấu và gia tăng sự nghi ngờ về lý lịch của mình. Ông ta còn phải thân thiết hơn với chồng của người giám sát trực tiếp của mình – đó là Uông Đạo Hàm, và hơn thế nữa là phải xây dựng quan hệ mật thiết với gia đình nhà họ Uông. Sau cùng, một điều cực kì quan trọng là Giang phải dành tình cảm cho quả phụ và gia đình của liệt sĩ ĐCSTQ Giang Thượng Thanh. Do đó, Giang Trạch Dân đã xu nịnh “mẹ nuôi” Vương Giả Lan nhiệt tình hơn nữa, Giang thậm chí còn cưới cháu gái của Vương Giả Lan là Vương Giả Bình và có được hai mụn con.
Từ một kỹ sư phó của Xưởng thực phẩm Ích Dân, Giang Trạch Dân được Uông Đạo Hàm đề bạt lên vị trí Quản đốc Xưởng Xà phòng Thượng Hải, và sau đó đến Quản đốc bộ phận máy móc điện tử của Cục Thiết kế Thượng Hải số 2 thuộc Bộ Công nghiệp Máy Cơ giới. Vào tháng 11 năm 1954, Giang được điều đến Xưởng chế tạo ô tô số 1 ở thành phố Trường Xuân, tỉnh Cát Lâm. Trong vai trò của mình, Giang được cử đến thủ đô Moskva (Nga) để học cách vận hành hệ thống cung cấp điện, và cư trú tại Trường Xuân trong 4 tháng để học tiếng Nga. Vào tháng 3 năm 1995, Giang đến Moskva cùng với 12 kỹ thuật viên.
Quảng cáo
Những đầu tư về mặt tình cảm của Giang Trạch Dân không phải hoàn toàn vô ích, mà trái lại, những mối quan hệ đó đã đến hồi đơm hoa kết trái. Được bồi dưỡng bởi Đinh Mặc Thônvà được đào tạo tại Ban Can huấn Thanh niên thuộc Tổng Bộ 76, Giang chỉ cần sử dụng phân nửa những gì mà mình góp nhặt được từ các cuốn sách chiến lược, chẳng hạn như “Thuật sinh tồn chốn quan trường” và “Học thuyết mặt dày tim đen” là đã quá đủ đối phó với Bát Lộ quân- vốn chỉ là đạo quân ô hợp không được đào tạo chính quy của Trung Cộng.
Trong khi làm việc ở Xưởng ô tô Stalin của Moskva, Giang Trạch Dân thường xuyên ngồi trên một chiếc ghế nhỏ ở trung tâm điều khiển và kiên nhẫn vận hành thiết bị cung cấp điện. Thực tế thì thiết bị này giống với thiết bị điện được trưng bày ở cuộc “Triển lãm Đại Đông Á Thánh chiến Thái Bình Dương” vào 12 năm trước đó, chỉ có điều là quy mô của thiết bị lần này lớn hơn nhiều. Vào thời điểm đó, Giang Trạch Dân đã tỏ rõ niềm yêu thích đối với máy móc điện tử –  bắt nguồn từ niềm đam mê của người cha Giang Quan Thiên (biệt hiệu Giang Thế Tuấn). Chính sở thích này đã đưa Giang Trạch Dân đến tận Liên Xô. Tuy nhiên, tục ngữ Trung Quốc lại có câu: “Thị phúc bất thị hoạ, thị hoạ đoá bất quá” – Là phúc không phải hoạ, là hoạ tránh chẳng qua.
Vào năm 1945, Hồng quân Liên Xô tiến vào vùng đông bắc Trung Quốc qua ba tuyến đường. Trong lúc lục soát thành phố Trường Xuân, họ tìm thấy toàn bộ hồ sơ hệ thống đặc vụ của Tướng Kenji Doihara, chắc chắn rằng những hồ sơ này có chứa các văn kiện và hình ảnh của Ban Can huấn Thanh niên. Cơ quan tình báo Liên Xô (KGB) biết rằng họ đã tình cờ phát hiện được một kho báu, họ nhận thức rõ giá trị của các văn kiện này. Và thực tế là chính các văn kiện này đã giúp cho quá trình sau này nước Nga thành công trong việc thôn tính các khu vực màu mỡ rộng lớn thuộc biên giới Trung Quốc.
Chiến dịch đại quy mô của Trung Cộng để “đàn áp những thành phần phản cách mạng” diễn ra từ năm 1950 đến 1953 và chiến dịch tiếp theo để “triệt hạ những thành phần phản cách mạng” từ năm 1955 đến 1957 đã không tìm ra được hành tung của kẻ phản bội Lý Sĩ Quần. Có người nói Lý Sĩ Quần nhờ được đào tạo như một đặc vụ của Liên Xô nên thấy trước được việc quân đội Nhật Bản sẽ sớm thất bại, nên ông ta đã chạy trốn. Vào thời điểm Trần Công Bác (Tổng thống thứ 2 và cuối cùng của Chính phủ Quốc dân Nam Kinh thân Nhật trong Thế chiến II) thoát thân sang Nhật, Lý đang chuẩn bị trốn chạy và tự cười nhạo về sự thiếu tầm nhìn của Trần Công Bác: Nếu quân đội Nhật Bản bị đánh bại, Trần sẽ không an toàn khi ở Nhật; nếu quân Nhật thắng thì hà tất phải chạy trốn? Sau khi suy đi tính lại, Lý tin rằng Liên Xô là lựa chọn tốt nhất cho mình. Nếu quân Nhật bại trận, xét cho cùng thì Liên Xô sẽ là kẻ chiến thắng; cả Tưởng Giới Thạch lẫn Trung Cộng đều sẽ không công khai chấm dứt quan hệ với Liên Xô chỉ vì một gián điệp hết thời.
Năm 1955, quan hệ Trung – Nga mặc dù được khoác vẻ bề ngoài thân thiết nhưng lại có chiều hướng xấu đi. Sự việc bắt đầu khi mỗi nước bắt đầu huấn luyện gián điệp được tuyển mộ từ đất nước của đối phương. Tuy nhiên, Chu Ân Lai lại khởi động cuộc rèn luyện sớm hơn. Chu đã xây dựng tình bạn với một cặp đôi người Nga là bác sĩ y khoa tị nạn trốn thoát đến Thượng Hải trong thời gian diễn ra Khủng bố đỏ của Liên Xô. Với sự thuyết phục của Chu, cặp đôi này đã lợi dụng cơ hội trị bệnh cho các chuyên gia Liên Xô ở Trung Quốc để đánh cắp các thông tin tối mật. Cuối cùng thì cả người vợ và người chồng đã hy sinh mạng sống cho Trung Cộng: Hồng Vệ binh Thượng Hải đã đánh đập họ đến chết trong cuộc Cách mạng văn hóa. Đôi vợ chồng đã không tiết lộ danh tính thật của mình, thậm chí cho đến những giờ phút cuối cùng của cuộc đời. Họ nói rằng họ chỉ có thể tiết lộ bản thân với riêng Chu Ân Lai.
Trong suốt thời gian ở Liên Xô, Giang Trạch Dân đã cố gắng hết sức để duy trì các mối quan hệ tốt đẹp ở mọi phương diện. Ông ta biểu diễn âm nhạc, ca hát, kể chuyện cười và tìm kiếm sự nổi tiếng ở bất cứ nơi đâu. Cơ quan tình báo Liên Xô (KGB) đã để ý điều này và bắt đầu chú ý đến Giang. Họ nghĩ rằng dưới trướng Trung Cộng mà lại có một người biết đàn piano và kéo nhị hồ, học được các ngôn ngữ nước ngoài thì ắt hẳn phải xuất thân từ gia thế hiển hách với khối tài sản khổng lồ; và bởi vì Giang đến từ Nam Kinh, họ nghĩ rằng thậm chí Giang có thể là một người nổi tiếng hay là Hán gian. Do đó, KGB đã tìm kiếm bộ tài liệu lịch sử ghi chép về hồ sơ của Giang và họ phát hiện ra Giang chính là con trai của kẻ phản quốc khét tiếng: Giang Quan Thiên (Giang Thế Tuấn). KGB đã phái một gián điệp đóng vai nhân tình tên Klava để quyến rũ Giang Trạch Dân.
Những phụ nữ Nga trẻ tuổi có nét đặc trưng là sống mũi cao và đôi mắt sâu thẳm. Đã sở hữu vẻ đẹp lộng lẫy, lại biết cách tán tỉnh sẽ khiến họ trở thành một ngôi sao điện ảnh trong đôi mắt đối phương. Mặc dù vợ của Giang đã đôi lần cùng ông ta chia sẻ rất nhiều khó khăn nhưng Giang hầu như không nhớ đến người vợ trọn nghĩa tào khang của mình trong khoảng thời gian ở Nga, thay vào đó ông ta lao mình vào lòng mỹ nữ Klava. Ông ta đơn giản là ngẩn ngơ trước người con gái phương Tây. Chuyện phong tình của Giang Trạch Dân hiện đã được nhiều người biết đến, nhưng chủ đề này sẽ được tiếp tục ở các chương sau.
Trong lúc Giang đắm mình trong cuộc tình với Klava, vào một dịp nọ, người tình nước Nga đã dịu dàng thì thầm cái tên “Lý Sĩ Quần” bên tai ông ta. Giang đã rất choáng váng – làm thế nào mà nàng lại biết được mối quan hệ giữa ta và Lý Sĩ Quần? Nhân lúc Giang đã mất hết thăng bằng, KGB sau đó đã nhanh chóng tiến thêm bước nữa. Cơ quan tình báo này đã cho Giang một khoản tiền, hứa rằng sẽ không tiết lộ quá khứ bất trung của Giang, hơn nữa còn đảm bảo rằng Giang vẫn có thể tiếp tục phong lưu khoái lạc cùng Klava trước khi trở về Trung Quốc – với một điều kiện, đó là Giang phải gia nhập Cục Viễn Đông của KGB và thu thập tin tức tình báo về các du học sinh Trung Quốc ở Liên Xô cũng như cung cấp thông tin chắc chắn về Trung Quốc.
Và rồi Giang quả thực đã tiếp tục làm việc cho KGB khi trở về Trung Quốc từ Moskva. Chính phủ Liên Xô đã giữ đúng lời hứa và không lặp lại sai lầm mà Stalin đã mắc phải vào những năm 1950 khi ông ta phản bội Cao Cương – một quan chức của Trung Cộng, sau này trở thành lãnh đạo ĐCSTQ ở phía đông bắc Trung Quốc. Thân phận điệp viên KGB của Giang Trạch Dân chưa bao giờ bị tiết lộ.
Vào tháng 5 năm 1991, Giang Trạch Dân viếng thăm Liên Xô trong vai trò Tổng Bí thư Ủy ban trung ương ĐCSTQ. Dĩ nhiên vào lúc ấy, Giang không ngờ được chỉ mấy tháng sau đó, Liên Xô – quốc gia cộng sản đầu tiên trên thế giới – sụp đổ chỉ trong vòng một đêm. Vào thời điểm đó, Đảng Cộng sản Liên Xô lâm vào tình trạng khủng hoảng toàn diện, nhưng do trước đây chế độ này từng rất hùng mạnh nên nó vẫn như một gã khổng lồ, giống như một câu thành ngữ Trung Quốc: “Sấu tử đích lạc đà bỉ mã đại” – Lạc đà dẫu chết vẫn lớn hơn ngựa. Do đó, trước chuyến viếng thăm, KGB vẫn có thể kiểm tra và tìm được hồ sơ về chuyện tình ái và kinh nghiệm làm gián điệp của Giang.
Như tờ Nhân Dân Nhật Báo đưa tin về chuyến thăm, Giang Trạch Dân – một người bận trổ tài ca hát bằng tiếng Nga trước mặt cựu Tổng thống Liên Xô Gorbachev trong lúc viếng thăm đất nước này – đã giàn giụa trong nước mắt khi trở lại Nhà máy ô tô Ligachev và gặp gỡ những người quen cũ ở nhà máy cùng con cái của họ. Nhưng theo một người trong cuộc sau này tiết lộ,  điều thực sự xảy ra là một phụ nữ “tình cờ” xuất hiện và bắt gặp Giang Trạch Dân trong lúc ông ta viếng thăm nhà máy; cụ thể là Giang đã nhìn thấy người phụ nữ này khi ông ta đi qua một trong những căn hộ tập thể của nhà máy. Cô ta cất giọng chào Giang: “Xin chào, anh yêu”, và khi đó hai hàng nước mắt của Giang tuôn rơi. Người phụ nữ đó không ai khác chính là Klava, giai nhân mà Giang từng yêu sâu đậm vào những năm trước đây. Sắp xếp một “cuộc gặp tình cờ” như thế thật quá dễ dàng đối với KGB. Họ biết rõ những chuyện tình ái và suy nghĩ của Giang như trong lòng bàn tay. Tất cả đều đi theo kế hoạch, Giang ôn lại kỉ niệm xưa với người tình trong suốt chuyến thăm. Khi trở về Trung Quốc, một Giang Trạch Dân bị quyến rũ đã kí kết một hiệp định liên quan đến phân đoạn phía đông của biên giới Trung – Xô, nhượng không cho Nga hơn 1 triệu km vuông (390.000 dặm vuông) lãnh thổ Trung Quốc.
Sau khi Liên Xô giải thể, Giang lại càng không dám coi thường hay từ chối nước Nga. Thậm chí chỉ những gợi ý tinh tế của Yeltsin hay cựu thành viên của KGB Putin cũng đủ khiến Giang bồn chồn, mất ăn mất ngủ. Điều này giải thích tại sao ngay cả khi Liên Xô không còn tồn tại, nhưng tấc lòng phản bội tổ quốc của Giang vẫn không hề suy chuyển.
Trung Cộng chưa hề điều tra những kinh nghiệm của Giang Quan Thiên và Giang Trạch Dân – hai thế hệ phản quốc làm tay sai cho các lực lượng Nhật Bản. Nguyên nhân là vì trên thực tế, Trung Cộng yêu mến Nhật Bản và cuộc xâm lược mà Nhật gây ra. Nếu không nhờ sự kiện Lư Câu Kiều thì sớm muộn gì tướng Tưởng Giới Thạch cũng tiêu diệt được Trung Cộng. Nếu không nhờ sự kiện Mãn Châu khiến Trương Học Lương để mất vùng đông bắc Trung Quốc thì Trung Cộng không tài nào gây ra được sự biến Tây An then chốt. Và chính Mao Trạch Đông đã phát biểu tại phiên họp toàn thể Lô Sơn vào năm 1959 rằng nhiệm vụ của ĐCSTQ trong suốt cuộc kháng chiến chống Nhật là phối hợp với quân Nhật bằng cách trợ giúp cho Nhật tấn công các binh lính và thường dân phản đối Nhật, và cho phép quân Nhật chiếm đóng nhiều phần lãnh thổ Trung Quốc hơn. Nhờ thế mà Trung Cộng có thể ở yên tại những vùng mà quân Nhật đã chiếm đóng, vốn an toàn và vượt khỏi tầm tay của Quốc Dân Đảng, rồi tiếp tục với cuộc vận động “chỉnh đốn” Diên An – trồng thuốc phiện và phát triển quân đội. Vì vậy nên Trung Cộng đàn áp những “kẻ phản quốc” (những người làm việc cho Nhật) nhẹ nhàng hơn rất nhiều so với những ai là thuộc hạ của Quốc Dân Đảng – sự đàn áp Quốc Dân Đảng quả là đẫm máu và tàn nhẫn. Khi Mao Trạch Đông tiếp kiến các thành viên của Đảng Xã Hội Nhật như Sasaki, Kuroda và Saihaku, ông ta tuyên bố ĐCSTQ không thể cướp được chính quyền nếu quân đội Nhật hoàng thất bại trong việc xâm lược hơn phân nửa lãnh thổ Trung Quốc.
Khi Giang Trạch Dân đến Liên Xô để tập huấn, ông ta khi đó đã nắm vững những điểm mấu chốt trong khâu tuyên truyền và cai trị theo kiểu phát xít. Trong thời gian ở đây, Giang phát hiện ra rằng lịch sử Liên Xô được kể lại sau này chỉ hoàn toàn là sự lừa dối. Sinh viên đại học tại đây không hề biết rõ C. Mác hay Ăng-ghen, trong khi sách giáo khoa Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô lại là lịch sử bị xuyên tạc toàn bộ để phù hợp với nhu cầu của Stalin. Đảng Cộng sản Liên Xô đã biến học thuyết tôn thờ C.Mác và Lênin một thời thành một thứ học thuyết cụ thể hơn, thực tế hơn để tôn thờ Stalin.
Điều này khiến Giang Trạch Dân suy tư: ông ta chưa bao giờ xem xét nếu một ngày nào đó mình lên nắm chính quyền thì làm thế nào để duy trì quyền lực. Và lại một lần nữa, Đảng Cộng sản Liên Xô phù hợp với vai trò làm người thầy dẫn dắt Giang.
Vào tháng 2 năm 1956, tại đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ 20, Tổng Bí thư Khrushchev đã lưu hành một báo cáo mật, trong đó các tội ác kinh hoàng của Stalin đã được tiết lộ một cách có hệ thống. Nội dung của tài liệu này nhanh chóng lan truyền khắp Liên Xô. Công chúng đã nổi giận khi biết được rằng Stalin đã tàn sát hàng chục triệu người dân Liên Xô. Ngay lập tức các con đường tràn ngập những hình ảnh Stalin bị xé thành mảnh vụn và những bức tượng đồng mang chân dung Stalin bị phá nát. Sự quay lưng quyết liệt của người dân Liên Xô thể hiện trong những sự kiện này đã khiến Giang nhận thức rõ hơn bao giờ hết rằng sự việc sẽ khủng khiếp như thế nào nếu quá khứ của ông ta bị bại lộ.
Vì sự lật đổ hình tượng Stalin từng được tôn kính một thời có thể khiến người dân Trung Quốc nhớ đến sự sùng bái của họ đối với Mao Trạch Đông không lâu trước đó, Trung Cộng bắt đầu sợ hãi rằng người dân Trung Quốc sống ở Liên Xô sẽ chịu ảnh hưởng tiêu cực bởi diễn biến của những sự kiện trên. Chính trị cần thống trị tất cả những thứ khác. Do đó, tất cả người Trung Quốc ở Liên Xô – trừ các công sứ ngoại giao, được ra lệnh phải trở về Trung Quốc ngay lập tức. Qua đợt bạo động này, Giang thu về một bài học rằng Stalin đã duy trì quyền lực thông qua đàn áp và dối trá cho đến lúc chết; ông ta đã phạm phải những tội ác kinh hoàng, nhưng ít nhất trong suốt cuộc đời của mình ông ta đã không chịu hậu quả gì. Giá trị của những thủ đoạn và phương sách này đã khắc sâu vào tâm trí của Giang như thế. Giang đã suy đi nghĩ lại vấn đề này nhiều lần.

Quyền lực bằng mọi giá: Chuyện đời thật của Giang Trạch Dân – Chương 2 – Phần 2

Bài viết này là phần 6 trong loạt bài gồm 8 phần, tựa "Quyền lực bằng mọi giá"

Chương 2: Hiển thị tài văn chương, Phụ tử hưởng đặc ân; Chuyên viên Điện Cơ làm Gian tế cho cả hai nước (1940-1956)

img-real-story-jiang-zemin-cap02b

Ngày tàn của Giang Trạch Dân đang đến gần. Vấn đề chính là lúc nào, chứ không phải là nếu như, cựu lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) sẽ bị bắt. Giang chính thức lãnh đạo Trung Quốc trong hơn một thập kỷ, và thêm một thập kỷ đứng đằng sau chỉ đạo các sự kiện. Trong hai thập kỷ này, Giang đã làm hại Trung Quốc không kể xiết. Bây giờ thời đại của Giang đã đến hồi kết thúc, Đại Kỷ Nguyên công bố lại loạt bài “Quyền lực bằng mọi giá: Chuyện đời thật của Giang Trạch Dân,” lần đầu công bố phiên bản tiếng Anh năm 2011. Qua đó độc giả có thể hiểu rõ hơn về sự nghiệp của nhân vật then chốt đối với Trung Quốc hiện đại này.

Ban can huấn thanh niên

Các điệp viên của quân Nhật xâm lược được điều hành bởi một vị tướng tên là Kenji Doihara với cánh tay phải là Đinh Mặc Thôn. Vì đã đề xuất “Chiến lược đặc vụ tại Thượng Hải” nên Đinh rất được người Nhật trọng dụng. Ông ta lập nên “Tổng bộ đặc vụ” tại số 76 đường Jessfield Thượng Hải (nay là đường Vạn Hàng Lộ) do ông ta đứng đầu và Lý Sĩ Quần làm phó. Năm 1939, Đinh đã là Trung ương Ủy viên kiêm Ủy viên Thường vụ Trung Ương Ngụy Quốc Dân Đảng–tương đương với chức Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị của ĐCSTQ. Ông ta cũng là Bộ trưởng Bộ Xã hội của Ngụy quyền, tương đương với chức Bộ trưởng Bộ An ninh của ĐCSTQ.
Giang Thế Tuấn rất kỳ vọng vào cậu con trai. Ông ta biết rõ rằng, chỉ những ai làm điệp viên như Đinh Mặc Thôn mới được tín nhiệm và đề bạt vào những chức vụ cao trong quân đội Nhật Bản và có được tiền đồ sáng lạn. Khi Đinh đang tìm địa điểm để xây dựng lại Đại học Trung Ương Nam Kinh của Ngụy quyền, ông ta kiên quyết loại trừ những sinh viên có ý thù địch với Nhật Bản ra khỏi hệ thống giáo dục đại học. Do đó ưu tiên hàng đầu của Đinh là huấn luyện một số “sinh viên đặc vụ” trà trộn vào hàng ngũ sinh viên nhằm theo dõi và tìm ra manh mối về những ý kiến chống đối hay những hoạt động kháng Nhật, từ đó tiến hành bắt bớ và trừ khử những người liên quan. Chính vì thế Đinh đã thành lập “Ban Can Huấn Thanh Niên Đại Học Nam Kinh”. Bắt chước chiến thuật của quân Nhật xâm lược, Đinh cũng tuyển chọn những thanh thiếu niên là con em các quan viên cao cấp. Sự huấn luyện bắt đầu từ khi còn thơ bé, khiến những thanh thiếu niên này có thể xử lý bình tĩnh, ứng biến nhanh nhạy gần như tự nhiên đối với bất kỳ tình huống ngặt nghèo nào. Những tên Hán gian ở các bộ, các vụ trong chính quyền bù nhìn Uông Tinh Vệ đều ra sức gửi gắm con em mình vào chương trình huấn luyện, bởi vì đây là cơ hội tốt cho tương lai của chúng.
Đinh Mặc Thôn tổ chức tổng cộng 4 khóa huấn luyện với số lượng học viên khác nhau. Giang Thế Tuấn tận dụng triệt để những cơ hội này để Giang Trạch Dân được tham gia huấn luyện bởi vì ông ta tin rằng Giang-con là một tài năng gián điệp thiên phú.
Đáng nói là, ngoài những khóa huấn luyện nghiệp vụ kỹ thuật, các điệp viên còn phải theo học các khóa chính trị, có chức năng như một chương trình tẩy não. Tất cả các điệp viên đều bị nghiêm cấm tín phụng bất kỳ chính thần nào. Sau khi Đức, Ý, Nhật hình thành Khối Trục thì thông tin tình báo đều được trao đổi giữa 3 nước. Các tác phẩm của Nietzsche–người từng tuyên bố rằng “Chúa đã chết” và có đóng góp rất lớn cho thuyết vô thần–được xem là “văn hóa cấp tiến” và thứ tà thuyết này trở thành tài liệu bắt buộc, nhằm đầu độc tư tưởng của các điệp viên.
Quảng cáo
Giang Trạch Dân tham gia vào khóa học thứ tư. Khóa học được tổ chức dưới danh nghĩa của Đại học Trung Ương Nam Kinh và được giảng dạy bởi các giáo sư chuyên ngành liên quan đến nghiệp vụ tình báo. Sau khi hoàn thành khóa học, học viên sẽ trực tiếp được nhận vào trường Đại học Trung Ương, thế nên Giang đã ghi danh. Giang chọn theo học ngành điện cơ, tất nhiên là có ảnh hưởng từ niềm đam mê của cha mình, nhưng cũng bởi vì Giang Trạch Dân rất thích thú và hiếu kỳ với các kỹ năng điện cơ của Giang Thế Tuấn trong “Triển lãm Thánh Chiến Đại Đông Á”.
Không chỉ được miễn học phí, Giang Trạch Dân còn nhận được học bổng. Ông ta sống vô độ thời đại học, thường xuyên đến các nhà chứa cùng đám bạn xu nịnh quyền thế. Là một điệp viên, Giang đã trở nên hư hỏng từ khi còn nhỏ, điều đó phần nào giải thích tại sao Giang lại dễ dàng tìm được gái bán hoa ngay lần đầu tiên công du Hoa Kỳ trên cương vị Bộ trưởng Bộ Công nghiệp Điện tử. Điều này rất hiếm gặp trong số những vị bộ trưởng thời bấy giờ.
Học viên của các khóa Can Huấn Thanh Niên này có khả năng đánh hơi tài tình, và đã chạy tứ tán sau khi quân Nhật đầu hàng. Những người rơi vào tay Trung Cộng đều trở thành giảng viên bán thời gian cho các cục an ninh công cộng, chuyên giảng dạy định kỳ cho các cán bộ an ninh của Trung Cộng. Thế nên Giang Trạch Dân cũng dạy một khóa cho Trung Cộng. Mặc dù “năng lực chánh sự của Giang không bằng một trưởng khoa nhỏ tại một đơn vị địa phương,” ông ta vẫn có thể sái lộng các đối thủ — mới hay cũ — trong Bát Lộ Quân, bằng những ngón nghề tình báo.
Vào tháng 10 năm 2003, có người công khai kêu gọi những người trong cuộc cung cấp một bức ảnh gọi là “ảnh tập thể có Lý Sỹ Quần và Giang Trạch Dân” được chụp vào năm 1942. Một nhân chứng của bức ảnh cho biết nó được chụp khi Lý Sỹ Quần gặp mặt các học viên khóa 4 của Ban Can Huấn Thanh Niên tại Đại học Trung Ương Ngụy quyền. Có 23 người trong bức hình, Giang Trạch Dân đứng thứ 5 (từ bên trái qua) hàng thứ 2.
Lý Sỹ Quần, người về sau đứng đầu Cục Tình báo Ngụy quyền Uông Tinh Vệ, gia nhập ĐCSTQ vào năm 1924. Ngày 12 tháng 4 năm 1927, Lý được Trung Cộng cử đi Liên Xô huấn luyện về tình báo. Lý quay về Thượng Hải vào cuối năm 1928 và làm việc cho Đặc vụ Khoa Trung Cộng. Năm 1938 Lý đầu quân cho Nhật và thành lập “Tổng bộ đặc công số 76”. Ảnh tập thể với Ban Can Huấn Thanh Niên cùng Lý Sỹ Quần là bằng chứng thép khẳng định rằng Giang Trạch Dân là đặc vụ Hán gian. Quá khứ ấy vẫn còn đeo bám Giang cho đến tận hôm nay.
Sau khi quân Nhật đầu hàng vào ngày 3 tháng 9 năm 1945, Trung Quốc bắt đầu khôi phục những vùng lãnh thổ đã mất. Ngày 26 tháng 9 năm 1945, chính quyền Quốc Dân Đảng (QDĐ) đã công bố một văn bản “kiểm định sinh viên trên trung học tại các khu vực đã được giành lại”, tiến hành thẩm định các sinh viên đang theo học tại các trường đại học-cao đẳng công lập ở những khu vực bị quân Nhật chiếm đóng. Tháng 10 năm 1945, Bộ Giáo dục chính quyền QDĐ ra lệnh thống nhất 3 trường: Đại học Giao thông Thượng Hải, Đại học Giao thông Trùng Khánh và Đại học Trung Ương Nam Kinh; và đặt trụ sở tại Đại học Giao thông Thượng Hải ở Từ Gia Hối. Vì Đại học Trung Ương Nam Kinh và Đại học Giao thông Thượng Hải nằm trong số 6 trường đại học được liệt vào dạng “trường học thuộc ngụy quyền hán gian”, sinh viên theo học những trường này cũng trở thành “ngụy sinh viên” và cần bị điều tra thẩm định. Vì thế Giang Trạch Dân cũng nằm trong số những “ngụy sinh viên” bị nghi ngờ và thuộc danh sách bị thẩm định, tuy nhiên Giang đã chạy trốn trước khi bị điều tra.
Giang chạy trốn vì ông ta thấy được kết cục đối với Trần Công Bác. Gần như ngay sau khi quân Nhật đầu hàng vào ngày 9 tháng 9 năm 1945, đại biểu của Trung Quốc là Hà Ứng Khâm đã chất vấn phía đại biểu Okamura Yasuji của Nhật nhằm dẫn độ Trần Công Bác về Trung Quốc để thẩm vấn. Trần Công Bác đã bị áp tải về Trung Quốc vào ngày 3 tháng 10.
Nhận thấy sự trừng trị nghiêm khắc của chính quyền QDĐ đối với Hán gian, Giang Thế Tuấn cũng cảm thấy đại nạn đang ở trước mắt, vì thế ông ta đã rũ bỏ biệt danh Giang Quan Thiên và lấy lại danh tính thực là Giang Thế Tuấn — một thương nhân, kỹ sư và là một người say mê văn học. Ông ta quay về quê nhà mai danh ẩn tính một thời gian.
Trong khi đó, Giang Trạch Dân đã bỏ học và chạy trốn. Cuối cùng ông ta lưu lạc đến một địa phương tên là Miên Hoa Bình, ở Vĩnh Tân, tỉnh Giang Tây. Không có tiếng nhạc từ China Nights, cũng không có điệu nhảy Ngọc thụ hậu đình hoa nơi hai bờ sông Tần Hoài, tiền kinh phí đặc vụ cùng cuộc sống xa hoa cũng không, Giang đã lưu lạc trong đói rét cơ hàn. Sau này nhờ một nông dân chứa chấp, Giang mới được tá túc hơn nửa năm để chờ đợi gia đình đến đón về.
Trước lúc rời xa nơi làng quê thôn dã ấy, Giang Trạch Dân viết lên một cuốn sách cũ về y khoa của gia đình người nông dân rằng một ngày nào đó nếu có được quyền lực, ông ta nhất định sẽ quay lại tạ ơn. Giang còn ký tên mình lên đó. Sau khi trở thành Tổng Bí thư ĐCSTQ, Giang đã từng đến vùng núi Tỉnh Cương và có ở lại Vĩnh Tân một ngày, hơn nữa còn cố ý đến thăm Miên Hoa Bình. Không ai trong số tùy tùng của Giang biết được vì sao ông ta lại quá quen thuộc với địa phương nhỏ bé này và tại sao ông ta lại cứ một mực muốn đến đó. Năm 1997 một hậu duệ của người nông dân kia đã tìm thấy cuốn sách y khoa có chữ ký của Giang, anh ta hết sức kinh ngạc nên đã đi tìm người thân thích của vợ Úy Kiến Hành (cũng là người Vĩnh Tân) để hỏi ý kiến xem nên làm gì với cuốn sách ấy. Cuối cùng người thân thích kia đã khuyên anh ta nên để chuyện này yên.
Trong lúc Giang đang trên đường đào thoát, học ủy Trung Cộng tại Thượng Hải đã ngấm ngầm lợi dụng sự bất mãn của nhiều sinh viên đối với các cuộc điều tra và khích động sinh viên tại 6 trường đại học thành lập một hội liên hiệp sinh viên. Trong vòng nửa năm từ tháng 10 năm 1945 đến tháng 3 năm 1946 (chính là khoảng thời gian mà Giang đang trốn tại Miên Hoa Bình), ĐCSTQ đã tập hợp sinh viên tại 6 trường đại học trên để tổ chức 7 lần diễu hành, 8 đợt thỉnh nguyện cùng nhiều lần hội thảo có mời cả phóng viên của Trung Quốc lẫn nước ngoài (một trong những cuộc diễu hành nổi tiếng nhất diễn ra vào ngày 6 tháng 11, sau này được gọi tắt thành sự kiên “diễu hành 11-6”). Trong khi đó sinh viên tại các đại học và học viện “thuộc ngụy quyền” ở Nam Kinh và Bắc Kinh (lúc đó được gọi là Bắc Bình) cũng được các tổ chức ngầm của ĐCSTQ cổ động và dẫn dắt hành động, đã tràn xuống đường phố diễu hành kháng nghị, tạo nên ảnh hưởng rất lớn đối với dư luận xã hội.
Nếu Giang Trạch Dân quả thật đã từng tham gia những phong trào gây chấn động như thế thì một kẻ miệng lưỡi như ông ta chắc có lẽ đã làm ra tối thiểu cũng 20 đến 30 tập phim truyền hình để ca ngợi bản thân. Nhưng Giang tuyệt nhiên không nhắc tới. Nguyên nhân cơ bản tất nhiên là do ông ta không có gì để khoa môi múa mép. Khi đó ông ta không ở Nam Kinh cũng chẳng ở Thượng Hải, mà đang trốn chui trốn nhủi ở một nơi hẻo lánh không ai biết, phập phồng mong đợi cho cuộc điều tra sớm kết thúc.
Về sau để che giấu cho khoảng thời gian này, Giang Trạch Dân nói rằng ông ta đã tham gia một phong trào sinh viên được tổ chức năm 1943 bởi lực lượng ngầm của Trung Cộng. Quả là một sự dối trá trắng trợn–chỉ có thể lừa gạt những ai không có kiến thức về lịch sử. Sự thực là tại những địa phương bị quân Nhật chiếm đóng, chưa bao giờ có một phong trào sinh viên nào, ở bất kỳ một trường học nào, được dẫn dắt bởi lực lượng Trung Cộng ngầm, mà chỉ có những hoạt động bí mật nhằm phản kháng quân Nhật. Chỉ có ở những địa phương do Quốc Dân Đảng chiếm đóng mới có những phong trào sinh viên kêu gọi chính quyền QDĐ kháng Nhật. Nếu nói một cách minh xác thì chính Trung Cộng đã xúi giục sinh viên trong vùng chiếm đóng của Quốc Dân Đảng thực hiện biểu tình để làm tổn hại thanh danh của Tưởng Giới Thạch, đồng thời hy vọng rằng cả quân Nhật và quân QDĐ đều lưỡng bại câu thương.
Trong những khu vực bi người Nhật chiếm đóng, người dân Trung Quốc bị đối xử tàn ác và đẫm máu. Bất kỳ sinh viên hay thầy giáo Trung Quốc nào nếu tìm cách tổ chức các hoạt động, tụ tập, biểu tình, kiến nghị, diễu hành hay đình công chống Nhật hay Ngụy quyền, hay có ý phản đối đều sẽ lập tức gặp phải đàn áp tàn bạo.
Giang Trạch Dân đã được chuyển đến Đại học Giao thông Thượng Hải và luôn né tránh đề cập đến quãng thời gian năm 1948 khi ông ta ở Thượng Hải sau khi tốt nghiệp đại học. Trong sơ yếu lý lịch của Giang (được trình lên Hội Trung ương Ủy viên), theo sau đề mục tốt nghiệp vào năm 1947 là kinh nghiệm chính trị năm 1949, là năm mà ĐCSTQ đoạt được chính quyền.
Nhưng sự thực là Giang đã làm việc cho cả Mỹ và cả QDĐ trong quãng thời gian đó. Dùng lời của Trung Cộng thì đó là “trục lợi”, là “phản cách mạng”. Trừ một vài học giả không phải người Trung Quốc ra thì không ai nhắc đến giai đoạn này của Giang. Biết rất rõ luật của Trung Cộng nên Giang không bao giờ dám hé răng về khoảng thời gian ngắn hợp tác với kẻ thù của chủ nghĩa cộng sản.
Sau khi tốt nghiệp Đại học Giao thông Thượng Hải vào năm 1947, Giang được nhận vào làm kỹ thuật viên phòng điều hành năng lượng tại một công xưởng thực phẩm thuộc chi nhánh Công ty Hải Ninh Dương, là một công ty của Mỹ. Cũng trong năm 1948 công ty này được Tổng bộ Liên Cần của QDĐ mua lại và đặt lại tên là Xưởng Nhất Lương; lúc đó nó trực thuộc bộ tư lệnh Bắc Kinh-Thượng Hải-Hàng Châu. Giang vẫn tiếp tục làm kỹ thuật viên năng lượng. Vì đây là một xí nghiệp quân công chịu sự kiểm soát chặt chẽ của QDĐ, tất cả các nhân viên, đặc biệt là những người ở các vị trí then chốt, đều bị điều tra cực kỳ nghiêm ngặt. Bất kỳ ai bị tình nghi là người của Trung Cộng hoặc có biểu hiện không đáng tin đều không thể đảm nhiệm những chức vụ quan trọng. Như thế thì tất nhiên không thể có lực lượng ngầm của Trung Cộng tại xí nghiệp này.

Quyền lực bằng mọi giá: Chuyện đời thật của Giang Trạch Dân – Chương 2 – Phần 1

Bài viết này là phần 5 trong loạt bài gồm 8 phần, tựa "Quyền lực bằng mọi giá"

Chương 2: Hiển thị tài văn chương, Phụ tử hưởng đặc ân; Chuyên viên Điện Cơ làm Gian tế cho cả hai nước (1940-1956)

(Luis Novaes/Epoch Times)
(Luis Novaes/Epoch Times)
Ngày tàn của Giang Trạch Dân đang đến gần. Vấn đề chính là lúc nào, chứ không phải là nếu như, cựu lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) sẽ bị bắt. Giang chính thức lãnh đạo Trung Quốc trong hơn một thập kỷ, và thêm một thập kỷ đứng đằng sau chỉ đạo các sự kiện. Trong hai thập kỷ này, Giang đã làm hại Trung Quốc không kể xiết. Bây giờ thời đại của Giang đã đến hồi kết thúc, Đại Kỷ Nguyên công bố lại loạt bài “Quyền lực bằng mọi giá: Chuyện đời thật của Giang Trạch Dân,” lần đầu công bố phiên bản tiếng Anh năm 2011. Qua đó độc giả có thể hiểu rõ hơn về sự nghiệp của nhân vật then chốt đối với Trung Quốc hiện đại này.
Giang Trạch Dân thích tạo ấn tượng với người khác rằng ông ta có tài ca vũ. Ông ta chơi được nhiều loại nhạc cụ, trong đó có piano, đàn nhị và guitar. Vì muốn hiển thị khả năng âm nhạc, Giang thường rơi vào những tình huống mất mặt. Đơn cử như ngày 30 tháng 3 năm 1999, Giang được Tổng thống nước Áo, Thomas Klestil, mời tham quan Salzburg, quê hương của Mozart. Vật phẩm quý giá nhất nơi đây là một chiếc đàn piano Vienna, được chính nhà soạn nhạc thiên tài mua năm 1785. Sau khi được ngài tổng thống giới thiệu di vật có hơn 200 năm lịch sử này, Giang sà vào đàn, kéo ghế, mở hộp, hào hứng muốn trình diễn. Lúc bấy giờ, nếu ông ta chơi vài nhạc phẩm tiêu biểu của Mozart, như Don Giovanni hay Marriage of Figaro, thì có thể xem đó là một sự hoài niệm hay thậm chí là sự tôn kính. Nhưng ngạc nhiên thay, Giang lại bắt đầu đàn bài “Hồng Hồ thủy lãng đả lãng” [1] (từng cơn sóng vỗ vào nhau trên mặt Hồng Hồ). Tổng thống Klestil rõ ràng không muốn Giang động đến di vật quý giá của tiền nhân, nhưng vì lễ tiết ngoại giao nên đành bỏ qua. Còn Giang diễn tấu say sưa, những mong thu hút ánh nhìn ngưỡng mộ từ các quý bà quý cô Trung Quốc.
Mải mê thể hiện sự tinh thông nhạc lý – táo gan động đến cả đàn piano của Mozart – Giang không hề nghĩ rằng trò hề này làm người ta liên tưởng đến mối tương đồng giữa cha con hắn: Hán gian.

1. Thủ thuật tẩy não Hán gian

Ở thời kỳ Ngụy quyền tay sai Uông Tinh Vệ (1940-1944), một gia đình có thể cho con theo học trường trung học tư nhân, rồi sau đó là Đại học Trung Ương Nam Kinh, hơn nữa còn được học piano, chẳng thể nào là một gia đình bình thường.
Quảng cáo
Năm 1940, cha của Giang Trạch Dân là Giang Thế Tuấn, đã tìm nơi nương náu tại Nam Kinh. Vào thời điểm ấy, đứng đầu Ngụy quyền có 3 người: Uông Tinh Vệ, Trần Công Bác và Chu Bột Hải. Trong đó Trần Công Bác và Chu Bột Hải đều là những người sáng lập nên ĐCSTQ, là đại biểu Đại hội Đảng lần thứ nhất; cả hai đều có chức vụ rất cao trong ĐCSTQ, thậm chí còn cao hơn cả Mao Trạch Đông.
Khi Uông Tinh Vệ thành lập chính quyền tay sai cho Nhật tại Nam Kinh, ông ta rất cần nhân lực và nhân tài, từ cấp bộ trưởng cho đến nhân viên. Thế là một loạt những văn nhân vô sỉ, thương nhân lươn lẹo, chính khách nhàn rỗi và cựu viên chức, tề tụ quanh Uông. Trước dinh thự của Uông tại Nam Kinh khi ấy đầy ô tô, từ loại tối tân vào những năm 1940 với các màu xám, lam, hồng, lục, đến loại cổ điển hai màu đen trắng có cả chỗ ngủ. Các vị khách đến từ những biệt thự xa hoa bên bờ sông Tần Hoài, hồ Huyền Vũ tại Nam Kinh, từ Tây Hồ tại Hàng Châu, từ Thượng Hải, Tô Châu, Vô Tích và Dương Châu. Người người chẳng biết từ đâu, bát phương tụ tập. Nhất thời, những thành phần cặn bã lại chiếm ưu thế trong xã hội,trong chính quyền Uông Tinh Vệ người ta chẳng từ thủ đoạn, kèn cựa giành giật, xu phụ quyền thế để ngoi lên. Trong số đó có văn nhân thương giới Giang Thế Tuấn.
Giang Thế Tuấn là kẻ chuyên đầu cơ trục lợi để có được quyền và tiền. Những năm ấy quân Nhật xâm lược với quân đội hùng mạnh, đã tấn công Trung Quốc đại lục từ đông bắc, đến chính bắc, rồi vào trung tâm, sau đó tràn đến Thượng Hải, Vũ Hán, Quảng Châu. Tiếp đó, Hồng Kông, Manila, và các đảo tại Nam Dương đều rơi vào tay Nhật Bản. Cuối năm 1941, trong khi quân Nhật Bản dưới sự lãnh đạo của Đô đốc Yamamoto Isoroku đã tiêu diệt đại bộ phận thủy quân và không quân Hoa Kỳ tại Trân Châu Cảng, thì Quốc Dân Đảng với sự lãnh đạo của Tưởng Giới Thạch vẫn còn dùng súng trường Hán Dương và dao kiếm để kháng cự xe tăng và máy bay của Nhật. Vì thế, nhiều người Trung Quốc tin rằng sớm muộn gì Trung Quốc cũng rơi vào tay Nhật Bản và bắt đầu chuyển qua làm tay sai cho Nhật. Nhưng Giang Thế Tuấn là một tiểu thương khôn khéo tính toán, cũng phòng bị rằng một ngày kia Quốc Dân Đảng sẽ nổi dậy và đánh bại quân xâm lược; đến lúc ấy ông ta sẽ lâm nguy do làm tay sai cho Nhật. Vì lý do ấy, Giang không dùng danh tính thực mà dùng bí danh “Giang Quan Thiên.”
Giang Thế Tuấn ham mê cả văn học và kỹ thuật điện cơ, đã bỏ ra không ít công phu nghiên cứu hai lĩnh vực này. Ông ta hết lòng nghiên cứu thủ đoạn tuyên truyền của Đức Quốc xã, đặc biệt là bộ phim tài liệu Chiến thắng bằng ý chí của Leni Riefenstahl; một bộ phim nổi tiếng về Hitler, thông qua những thủ pháp nghệ thuật và sắc thái tôn giáo, đã tạo nên hình tượng Hitler như một vị thần. Chỉ trong mấy năm đầu sau khi Hitler lên cầm quyền, GDP của nước Đức tăng đột biến, 100% mỗi năm – là bằng chứng của “chiến thắng bằng ý chí.” Riefenstahl đạo diễn tiếp một bộ phim khác, Olympia, có chủ đề về Thế Vận Hội Mùa Hè năm 1936 tại nước Đức và tinh vi biến sự kiện này thành một “nghi thức phát xít.” Đứng tại giác độ nghệ thuật, bộ phim đã khiến vô số thanh niên nước Đức như mê như say.
Giang Thế Tuấn chủ trì những công tác thường nhật tại Bộ Tuyên truyền Chính phủ Trung ương Ngụy quyền, do đó ông ta có thể đem toàn bộ tâm huyết nghiên cứu vận dụng phương pháp tuyên truyền phát xít. Ông ta cũng hiểu được sức mạnh của dư luận. Mặc dù bận bịu với công việc mỗi ngày, Giang luôn giành thời gian “nhọc lòng khẩn thiết” dạy dỗ người con trai Giang Trạch Dân. Rất nhiều người khi thấy Giang Trạch Dân ra lệnh cấm hoạt động đối với Báo Kinh tế Thế giới ngay trước Cuộc Thảm sát Thiên An Môn 1989, những tưởng rằng đó là ngẫu nhiên. Kỳ thực, sự kiện này cho thấy Giang Trạch Dân hiểu quá rõ sức ảnh hưởng của truyền thông – một thứ vũ khí mà ông ta đã nắm vững khi mới 15 tuổi. Quyết định thảm sát đơn giản cho thấy ông ta đã “thấm nhuần” lý luận tuyên truyền của Đảng, đã trở nên “lão luyện” về mặt chính trị, và đã có thêm nhiều cơ hội vận dụng chúng trong thực tiễn khi bước trên những nấc thang quyền lực của ĐCSTQ.
Một tay Giang Thế Tuấn đã bày ra Triển lãm Chiến tích Đại Đông Á thánh chiến Thái Bình Dương, trong đó vận dụng những kỹ xảo tuyên truyền mà ông ta học được, cùng những kiến thức về điện cơ, để miêu tả cuộc không chiến và hải chiến Mỹ-Nhật, với đầy đủ các hiệu ứng về âm thanh và ánh sáng. Cảnh tượng quân Nhật khai pháo, máy bay Mỹ trúng đạn, lao xuống đất, diễn ra thật sống động. Một bức tranh sơn dầu lớn – Tập kích Trân Châu Cảng – choán hết toàn bộ tường nhà triễn lãm. Trong bức tranh, bầu trời tràn ngập những chiếc máy bay Zero Fighter bay lên lượn xuống, tiếp đất như đàn muỗi, biểu hiện tinh thần võ sĩ đạo của quân nhân Nhật Bản, cùng sự phù hộ “vũ vận trường cửu” của Thiên Chiếu Đại Thần Amaterasu Omikami; như thế người ta xem xong sẽ cảm thấy quân Nhật là bất khả chiến bại và sẽ vĩnh viễn chiếm đóng Trung Quốc; “tiêu” Anh “diệt” Mỹ cũng chỉ là chuyện một sớm một chiều.
Bên cạnh đó Giang Thế Tuấn còn tham gia sản xuất Vạn cổ lưu danh, một bộ phim kháng kích Anh và Mỹ. Với số tiền đầu tư kếch xù, Giang đã mời được một vị đạo diễn nổi tiếng và ngôi sao điện ảnh Cao Chiêm Phi diễn vai Lâm Tắc Từ, một vị quan triều Thanh. Bộ phim đã bóp méo lịch sử nhằm phục vụ nhu cầu xâm lược của Nhật, và gieo rắc lòng hận thù đối với nước Mỹ.
Giang Thế Tuấn còn học cách vận dụng tuyên truyền theo hình thức dân tộc, nhằm ngụy tạo sự thái bình thịnh vượng và khiến người dân quên lãng cuộc thảm sát Nam Kinh [2] những năm trước đó. Đơn cử như phương cách ông ta lợi dụng lễ hội “vu lan” truyền thống của Phật giáo. Giang tổ chức lễ hội thật hoành tráng, cùng với tập tục thả hoa đăng trên sông, đồng thời sử dụng báo chí quảng bá rầm rộ về bảo liên đăng và hoa tươi giăng khắp Sông Tần Hoài và Hồ Huyền Vũ. Nhân dân Nam Kinh chen chúc nhau trên bờ sông và trước Miếu Khổng Tử để chứng kiến sự kiện này. Khán giả vô tình trở thành con rối trong tay Giang, như mê mờ lạc lối, quên mất lịch sử thương tâm gây nên bởi chính quyền Nhật Bản.
Cục tuyên truyền – đứng đầu là Giang Thế Tuấn – đã biên soạn những ca khúc nhi đồng thông tục, vì chúng biết rõ: tẩy não cần bắt đầu từ tuổi còn thơ. Thế nên Giang đã sử dụng những lời hát như “bảo đao như điện chớp, khí chất như cầu vồng – nào ta đấu tranh cho thịnh phú”, để dạy bảo trẻ em rằng chúng được phép giết người và chiến tranh là để đạt được thịnh vượng và chủ quyền. Trong khi đó, ca từ dạng như “Ngàn dặm vạn dặm, đại phong dương dương” lại tán dương quân Nhật xâm lược, đã vượt qua biết bao gian khó trên bước đường chinh phục Châu Á, bất chấp nghịch cảnh, anh dũng hy sinh cho “tự do” tại Đông Á. Ông ta phát hành một cuốn truyện tranh thiếu nhi có tựa đề Lịch sử xâm lược Trung Hoa của Anh và Mỹ, với mục đích chĩa mũi dùi hận thù về phía 2 quốc gia này, trong khi ca tụng “vành đai Đại Đông Á cộng vinh” [3] cùng ý tưởng “nhân dân Châu Á nhất tề cố gắng, tiêu Anh diệt Mỹ nhất định toàn thắng.”
Có thể nói Giang Trạch Dân là một đứa trẻ lớn sớm, tuân theo sự dạy dỗ từ Giang Thế Tuấn.Ngay khi còn nhỏ, Giang Trạch Dân đã học được kỹ thuật tẩy não từ cha mình. Với bản tính mưu mô, Giang-con nhanh chóng tiếp thu những mánh lới của cha, kể cả những điều nhỏ nhặt nhất. Những bài học ấy thể hiện ở việc ĐCSTQ đã làm khánh kiệt tài nguyên quốc gia nhưng lại gây dựng nên 4 siêu thành phố – Bắc Kinh, Thượng Hải, Thâm Quyến, và Quảng Châu – nổi tiếng bởi sự trụy lạc cùng đời sống xa hoa và phung phí. Những ca sỹ nổi danh, các ngôi sao điện ảnh và diễn viên hài, đồng loạt đăng đàn ngợi ca Đại liên hoan kỷ nguyên hưng thịnh [4].  Nhưng nếu lưu ý định nghĩa tiêu chuẩn nghèo từ Liên Hợp Quốc là những người có mức thu nhập thấp hơn 365USD hay khoảng 3000 NDT một người, thì khi ấy có khoảng 900 triệu người Trung Quốc có mức thu nhập bình quân chỉ ở mức 2620 NDT, nghĩa là có gần 1 tỷ người sống trong nghèo đói. Cùng lúc đó có khoảng 30 triệu hộ gia đình ở các khu đô thị bị thất nghiệp. Nếu những người ấy không đối diện với hiện thực đói khổ, khi xem được những tuyên truyền rợp trời này, chắc có lẽ đã tin vào một Trung Quốc thịnh vượng hào nhoáng. Tất cả những thứ ấy đều xuất xứ từ mầm mống chiến thuật tuyên truyền được gieo rắc bởi người cha phát xít và bán nước của Giang Trạch Dân, được tưới bởi thứ nước tội lỗi của ĐCSTQ và mánh lới của Giang Trạch Dân, bất chấp những nguy hại đến con người, vẫn cứ sinh trưởng, nảy chồi, và kết trái.
Sau khi có được tam quyền: Đảng, chính phủ và quân đội, Giang Trạch Dân đề bạt người bạn thân Trần Chí Lập, làm bộ trưởng Bộ Giáo dục với mục đích tẩy não thanh thiếu niên Trung Quốc. Đáng kể nhất là quyết định loại bỏ những hình tượng văn hóa như Nhạc Phi và Văn Thiên Tường khỏi danh sách những “anh hùng dân tộc”, trong khi lại ca ngợi kẻ bán nước như Tần Cối. Lấy ý tưởng từ “Chiến thắng bằng ý chí”, Giang đã đầu tư 30 triệu USD cho Trương Nghệ Mưu làm bộ phim Anh hùng – với những cảnh quay hùng vỹ và vũ thuật đẹp mắt, nhưng lại ca ngợi bạo chúa Tần Thủy Hoàng. Trên thực tế, bộ phim đã được công chiếu tại Đại Hội Đường Nhân Dân, cho thấy ảnh hưởng chính trị của nó. Kết hợp những điều học được từ cha mình với những thủ đoạn tuyên truyền cóp nhặt từ ĐCSTQ, Giang Trạch Dân thậm chí còn cao tay hơn cả cha trong việc tuyên truyền; và tất nhiên số tiền mà Giang-con sử dụng để tuyên truyền là lớn hơn rất nhiều. Mánh lới của Giang Thế Tuấn thua xa Giang Trạch Dân cả về phạm vi lẫn độ sâu.
Giang Trạch Dân đặc biệt yêu thích khung cảnh phồn hoa phú quý hai bên bờ sông Tần Hoài. Với mục đích chính trị, quân Nhật xâm lược đã quảng bá nữ diễn viên người Nhật, Lý Hương Lan, thành “đế quốc chi hoa” – một phụ nữ tài sắc vẹn toàn. Nàng diễn xướng nhiều ca khúc được khán giả khắp Trung Quốc mến mộ, chẳng hạn như “ngày nào chàng trở lại,” “dạ lai hương,” “mại đường ca,” “ca vũ kim tiêu.” Ca hát tại khu vực bị quân Nhật chiếm đóng, giọng ca ngọt ngào và những cảnh sắc mê say trong lời ca của Lý đã ru ngủ người dân Trung Quốc, khiến họ quên lãng cuộc thảm sát vừa mới diễn ra mấy năm trước. Và cũng chính Lý đã thủ vai nữ chính, đồng thời thể hiện ca khúc nhạc nền, trong bộ phim China Nights. Bộ phim kể về một cô gái Trung Quốc si mê một người lính Nhật Bản, dù trước đó đã bị anh ta đánh đập. Thủ đoạn tẩy não tinh vi, sử dụng mỹ nữ cùng những bài hát ngọt ngào, đã gây ấn tượng sâu sắc đối với Giang Trạch Dân. Về sau, chính Giang đã chỉ thị Đài Truyền hình Trung Ương (CCTV) khi làm Gala Mừng Xuân hàng năm phải mở màn bằng một bài hát có tính chính trị được hát bởi Tống Tổ Anh. Điều đó thể hiện rõ động cơ của ông ta.
Đối với những phụ nữ xinh đẹp như Lý Hương Lan, Giang Trạch Dân chẳng thể nào quên. Năm 1991, Đoàn kịch Shiki của Nhật Bản đã đến Trung Quốc trình diễn một vở nhạc kịch có tính chính trị, tên là Ri Koran (phiên âm tiếng Nhật của Lý Hương Lan). Lý Hương Lan, khi ấy đã 71 tuổi, đã dự định tự mình đến Trung Quốc tham dự buổi bế mạc tại thành phố Đại Liên. Cuối cùng bà phải hủy kế hoạch vì lý do sức khỏe. Giang Trạch Dân đã than thở trong một thời gian rất dài vì tiếc nuối cơ hội được chuyện trò cùng người tình trong mộng của biết bao người đàn ông.
Giang Thế Tuấn hàng năm đều tổ chức lễ tưởng niệm Khổng Tử, nhằm tỏ vẻ phát huy văn hóa Trung Hoa. Ông ta dàn dựng biểu diễn điệu “bát dật”, làm theo những lễ nghi được ghi chép trong sách Lễ Ký và tế lễ tam sinh heo, bò, cừu. Sau nghi lễ, tam sinh được chia phần và gửi đến quan viên các bộ, các cục trong Ngụy chính phủ. Giang Trạch Dân cũng nối gót cha mình, ra sức hoằng dương những thứ gọi là “văn hóa dân tộc” nhưng với mục đích ca ngợi sự thống trị của ĐCSTQ.
Ghi chú
[1] Một bài hát từ vở opera hiện đại của Trung Quốc “Hồng binh Hồng Hồ”, đoạn nhạc này bắt chước một điệu nhạc phổ biến tại Hồ Bắc, nhằm phục vụ cho mục đích chính trị của ĐCSTQ.
[2] Còn được gọi là Cưỡng hiếp Nam Kinh, là một tội ác chiến tranh do quân đội Nhật thực hiện tại thành phố Nam Kinh của Trung Quốc vào tháng 12 năm 1937.
[3] Một nỗ lực của Nhật Bản tạo nên một khối các quốc gia Châu Á có thể cung cấp vật liệu thô cho Nhật và đóng vai trò tiêu thụ hàng hóa từ Nhật Bản.
[4] Đề tài của Gala Mừng Xuân năm 2005 của Đài Truyền hình Trung Ương Trung Quốc (CCTV).

Quyền lực bằng mọi giá: Chuyện đời thật của Giang Trạch Dân – Chương 1 – Phần 2

Bài viết này là phần 4 trong loạt bài gồm 8 phần, tựa "Quyền lực bằng mọi giá"
(Luis Novaes/Epoch Times)
(Luis Novaes/Epoch Times)
Ngày tàn của Giang Trạch Dân đang đến gần. Vấn đề chính là lúc nào, chứ không phải là nếu như, cựu lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) sẽ bị bắt. Giang chính thức lãnh đạo Trung Quốc trong hơn một thập kỷ, và thêm một thập kỷ đứng đằng sau chỉ đạo các sự kiện. Trong hai thập kỷ này, Giang đã làm hại Trung Quốc không kể xiết. Bây giờ thời đại của Giang đã đến hồi kết thúc, Đại Kỷ Nguyên công bố lại loạt bài “Quyền lực bằng mọi giá: Chuyện đời thật của Giang Trạch Dân,” lần đầu công bố phiên bản tiếng Anh năm 2011. Qua đó độc giả có thể hiểu rõ hơn về sự nghiệp của nhân vật then chốt đối với Trung Quốc hiện đại này.
(Đây là phần 2 của chương 1, để đọc phần 1, vui lòng click vào đây)

Lợi dụng thân phận ngụy tạo

Giang Trạch Dân không ngừng tìm cách thay đổi thân phận của mình: ông ta cảm thấy cần được xác nhận bởi Vương Giả Lan, người thím góa và là “dưỡng mẫu,” cùng gia đình bà. Giang nhận thức rằng, cần phải đầu tư về mặt vật chất cho họ, nên ông ta bắt đầu thường xuyên thăm viếng người thím. Tuy nhiên, Giang không bao giờ đến tay không, ông ta luôn mua quà để lấy lòng cả người mẹ lẫn các cô con gái. Con người ta có cảm xúc, dần dần tình cảm lớn lên, người ta có thể nhắm mắt làm ngơ. Hơn nữa, sự dối trá về thân phận của Giang chỉ có thể có lợi đối với Vương Giả Lan và gia đình bà.
Đối với Giang Trạch Dân, có được chứng nhận “con em liệt sỹ” trong hồ sơ cá nhân không phải là mục đích tối hậu. Thân phận ấy chỉ có được đôi chút lợi ích. Ông ta cần sự hậu thuẫn của các quan chức cao cấp nhằm thăng tiến trong sự nghiệp chính trị. Đó là nguyên nhân khiến Giang bắt đầu sưu tầm nghe ngóng những vị cán bộ cấp cao cùng hội cùng thuyền với Giang Thượng Thanh.
Quảng cáo
Năm 1982, Giang Trạch Dân lúc ấy là Phó Chủ nhiệm Ủy ban Quản lý Xuất Nhập Khẩu Trung Quốc, đã vô tình nghe được Phó Tổng thư ký Quốc Vụ viện khi ấy là Trương Ái Bình, từng làm việc cho Đặc Ủy Đông Bắc tỉnh An Huy. Giang vô cùng phấn khích và tiến hành tìm hiểu những sở thích, đam mê của Trương Ái Bình. Khi Giang phát hiện ra Trương Ái Bình ham mê thư pháp, ông ta đã nảy ra một sáng kiến để lấy lòng Trương.
Có lần, vào cuối một cuộc họp, Trương Ái Bình nghe tiếng ai đó gọi đằng sau “Phó tổng thư ký Trương!” Ông ngoái đầu nhìn, hóa ra đó là Giang Trạch Dân, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Quản lý Xuất Nhập Khẩu. Trương đã gặp Giang đôi lần trong quan hệ công việc. Giang Trạch Dân vội vã bước đến và cẩn thận hỏi “Ngài còn nhớ Giang Thượng Thanh không?” Trương đáp lời “Tất nhiên ta biết, bọn ta đã từng là bạn tốt. Đáng tiếc là anh ấy mất sớm.” Giang biểu lộ vẻ mặt trầm ngâm, đề cao thanh điệu rồi  nói “Ông ấy là cha nuôi của tôi!” Trương Ái Bình đã vô cùng chấn động, ông ta được miêu tả là đã không nói nên lời.
Nguyên Trương Ái Bình thân cận với Giang Thượng Thanh trong cuộc Kháng chiến Chống Nhật; Giang được ĐCSTQ điều động đến làm việc cùng Trương tại Đặc Ủy Đông Bắc tỉnh An Huy. Năm 1939 Giang Thượng Thanh mất khi mới 28 tuổi, lúc ấy Trương Ái Bình 29 tuổi. Giang Trạch Dân biết được Trương Ái Bình giỏi thư pháp, viện lý do xây mộ mới cho Giang Thượng Thanh, đã xin bút tích của Trương để treo lên mộ phần. Mưu đồ này vừa khiến mẹ con Vương Giả Lan cảm động, nhưng sâu xa hơn đã thuyết phục Trương Ái Bình rằng Giang chính là “con nuôi” của người bạn quá cố.
Ai cũng biết Giang Trạch Dân có được cái ghế Thị trưởng Thượng Hải là nhờ Uông Đạo Hàm, điều này đương nhiên trực tiếp liên quan đến việc Giang tự xưng là con nuôi của Giang Thượng Thanh. Vào thời kỳ đầu cuộc Kháng chiến Chống Nhật, hay còn gọi là thời “Quốc Cộng hợp tác,” Giang Thượng Thanh là thượng cấp của Uông Đạo Hàm. Lúc đó, Giang Thượng Thanh, Đảng viên, phụ trách việc “thống chiến” [1] cùng chính quyền và lực lượng vũ trang địa phương của Quốc Dân Đảng tại An Huy, có được sự tín nhiệm từ Thịnh Tử Cẩn, Tư lệnh Bảo an kiêm Chuyên viên Hành Chính Khu vực 6 tỉnh An Huy. Một trong những nhiệm vụ của Giang Thượng Thanh là liên lạc với một nhóm đặc vụ Trung Cộng từ Thượng Hải và Giang Tô đến đảm nhiệm các chức vụ cấp huyện cho Thịnh Tử Cẩn. Uông Đạo Hàm là một trong số đó.
Khi Giang Trạch Dân còn làm việc tại Công ty Ôtô số 1 tại thành phố Trường Xuân, Uông Đạo Hàm khi ấy là Bộ trưởng Thứ Nhất Công nghiệp Cơ giới. Sau khi Giang biết được mối quan hệ giữa Uông Đạo Hàm và Giang Thượng Thanh, ông ta tìm cách kết thân với Uông và gọi Uông là “ân sư.” Được Uông dìu dắt hỗ trợ, sự nghiệp chính trị của Giang rất thuận buồm xuôi gió. Ấy vậy mà khi đạt được địa vị tối cao, Giang đã về Thượng Hải thăm viếng tất cả những người đỡ đầu cho mình, ngoại trừ Uông Đạo Hàm. Thế cho nên người Thượng Hải nói Giang là “lương tâm chó gặm.”
Tuy nhiên Giang Trạch Dân không hề hài lòng với những mối quan hệ giả tạo cùng Uông Đạo Hàm và Trương Ái Bình. Ông ta không bỏ qua bất kỳ cơ hội nào để thăng tiến chốn quan trường.
Khi Triệu Tử Dương làm Tổng bí thư Đảng Cộng sản, Giang Trạch Dân thấy mình hiếm có cơ hội để lấy lòng Triệu, nên Giang bắt đầu lối đi vòng để tiếp cận Triệu. Một phương cách là lân la với những thân tín của Triệu; trong đó có một chuyện đã được đàm tiếu cả Trung Nam Hải. Một cựu lãnh đạo Quân Ủy Trung Ương, thượng tướng Hồng Học Trí, là người Kim Trại tỉnh An Huy. Trước mặt Hồng, Giang đã chủ động nói rằng tổ tịch của mình cũng là người An Huy, như vậy là người “đồng hương.” Gặp gỡ những ai, nói những lời nào, sao cho có lợi đối với bản thân chính là đặc điểm lớn nhất của Giang Trạch Dân nơi quan trường.
Khi Giang Trạch Dân càng thăng tiến ở chốn quan trường, ông ta càng sợ hãi rằng thân phận thật sự sẽ bị tiết lộ. Ông ta không bao giờ nhắc đến người cha ruột, thậm chí hoàn toàn cố ý tránh gặp mặt chị em ruột nhằm che giấu quan hệ. Chị của Giang bị quy là “cánh hữu” trong thời kỳ chống cánh hữu của ĐCSTQ trong những năm 1950, bị trả về quê, cách chức, và sống với mức lương 8 NDT/tháng [2]. Lo sợ lý lịch gia đình bất hảo bị lật tẩy, Giang không mảy may quan tâm đến chị ruột của mình. Vậy mà theo như Kuhn, thời điểm ấy Giang trợ cấp cho 2 người em họ (con của Giang Thượng Thanh) mỗi người 10 NDT/tháng.
Sau khi Giang chuyển đến Trung Nam Hải, hai người em họ cứ như là “kê khuyển thăng thiên”. Trường Song Ngữ Thế Minh, nhận học sinh từ mẫu giáo đến trung học, là một trong những ngôi trường lớn nhất và có trang thiết bị tốt nhất tại Dương Châu. Trên danh nghĩa, trường này được bảo trợ bởi Hội Chữ Thập Đỏ Trung Quốc, nhưng người chủ thật sự đứng đằng sau là Giang Trạch Linh, con gái đầu của Giang Thượng Thanh. Website chính thức của trường đăng lời đề tặng của Giang Trạch Dân. Có lần một ngân hàng, theo chỉ đạo của Giang Trạch Dân, đã cho Thai Triển – con trai của Giang Trạch Linh – vay vốn làm ăn mà không yêu cầu bất kỳ thế chấp nào hết.
Vô liêm sỉ hơn nữa là quá trình Giang Trạch Dân đưa Giang Trạch Huệ, con gái thứ hai của Giang Thượng Thanh, lên những chức vụ cao cấp. Theo báo cáo chính thức, Giang Trạch Huệ nhảy từ vị trí giảng viên trường Đại học Nông nghiệp An Huy sang làm Phó Chủ nhiệm Ủy ban Nhân dân tỉnh An Huy, Chủ tịch kiêm Bí thư Đảng ủy Đại học Nông nghiệp An Huy. Không lâu sau bà lại thăng vọt lên làm Viện trưởng Viện nghiên cứu Lâm nghiệp Trung Quốc và là thành viên của Đảng ủy Lâm nghiệp Quốc gia Trung Quốc. Những chức vụ khác bao gồm: Ủy viên Chính Hiệp Toàn Quốc; Phó Chủ nhiệm Ủy ban Dân số, Tài nguyên và Môi trường; Thường Ủy viên Hiệp hội Khoa học và Công nghệ Trung Quốc; Chủ nhiệm Ủy ban Công tác Phổ cập Khoa học; Ủy viên Học vị Quốc vụ viện; Đồng Chủ nhiệm Hội Liên hiệp Quốc tế Trúc Đằng; Hội trưởng Hiệp hội Hoa Trung Quốc; Hội trưởng Hội Trúc Sản nghiệp Trung Quốc; và Chủ nhiệm Liên đoàn Lâm học Trung Quốc.
Khi Giang Thượng Thanh qua đời, 2 người con gái Giang Trạch Linh 3 tuổi và Giang Trạch Huệ 1 tuổi 4 tháng chỉ có hiểu biết mơ hồ về cha mình. Cả hai chị em đều hiểu rằng, không phải tất cả con em “liệt sỹ cách mạng” của Trung Cộng đều có thể leo lên được những địa vị cao trọng. Cha của họ, Giang Thượng Thanh, chu cấp cho họ rất ít, và sau khi ông mất cả hai phải sống trong cảnh đói khổ. Ngược lại, Giang Trạch Dân lợi dụng lai lịch của cha họ để tư lợi cá nhân, dùng nó để quan hệ với những quan chức cấp cao như Uông Đạo Hàm và Trương Ái Bình, rồi leo lên những nấc thang sự nghiệp và quay lại nâng đỡ họ. Nếu Giang Trạch Dân không sửa đổi xuất thân, hai chị em dù muốn cũng không thể mơ tới địa vị mà họ có được hôm nay. Cũng chỉ có người anh họ Giang Trạch Dân mới có thể tận dụng hết cái danh xưng “liệt sỹ cách mạng” của cha họ. Do đó hai người đều tự giác tự nguyện “tự cấm”, ở bất kỳ tình huống nào đều nói và làm theo những gì Giang Trạch Dân mong muốn.
Bất quá, con người ta thường lỡ miệng khi cao hứng. Có lần vài người bạn trò chuyện cùng Giang Trạch Huệ, có người nói “Cô thật là may mắn khi có ông anh như Giang Trạch Dân mới có được ngày hôm nay.” Giang Trạch Huệ bĩu môi đáp lời “Cô nhầm rồi. Là ông ta tốt số. Ông ta thăng tiến nhanh đến thế là nhờ có nhà tôi hậu thuẫn. Nếu không có gia đình tôi, ông ta đã bị liệt vào loại ‘hắc ngũ’ [3].” Có người cẩn thận hỏi “Chẳng phải mẹ cô nhận nuôi ông ta sao?” Giang Trạch Huệ mới nói “Lúc ấy nhà tôi quá khó khăn. Mẹ tôi đã từng hy vọng có người thân thích nhận nuôi 2 chị em tôi. Làm sao bà ấy dám nhận con nuôi cơ chứ? Hơn nữa, nhà ông ấy giàu, nhà tôi nghèo. Khi đó họ còn không thèm nhìn mặt nhà tôi. Chỉ là sau này có thay đổi, họ thấy có thể lợi dụng được chúng tôi… Vậy ai có lợi từ ai đây? Chúng tôi đều biết rõ.”
Chỉ cần xem lý lịch trích ngang của Giang Trạch Dân cũng sẽ thấy nhan nhản những điều mâu thuẫn. Để che đậy xuất thân gia đình Hán gian, Giang khai rằng ông ta tích cực tham gia “hoạt động cách mạng”, “nhiệt trung ái quốc” khi học tiểu học và trung học. Nhưng trên thực tế, với sự bồi dưỡng của phụ thân, Giang bận bịu với những thứ cầm kỳ thư họa. Đến khi học đại học, Giang cũng chẳng hề “ái quốc”, không theo học trường Đại học Trung Ương đã được di dời về phía tây Trung Quốc mà lại học ở trường Đại học Trung Ương của Ngụy quyền tại Nam Kinh. Giang biện hộ rằng ông ta làm thế là để “cứu Trung Quốc” thông qua con đường khoa học, muốn cứu quốc bằng con đường khoa học mà không để ý đến chính trị. Nhưng tuyên bố này lại hoàn toàn đối nghịch với cuốn hồi ký mới đây của Kuhn, trong đó viết rằng Giang nhiệt tình tham gia vào những hoạt động ngầm của Đảng Cộng sản tại trường học, sau đó kết nạp Đảng và trở thành phần tử hoạt động tích cực của Đảng tại Thượng Hải. Nhưng không thể nào kiểm chứng được liệu Giang Trạch Dân có tham gia vào hàng loạt những “sự kiện cách mạng” như lời khẳng định trong sách của Kuhn. Ví dụ như, cái gì là “cuộc biểu tình 23 tháng 6” được tổ chức bởi ĐCSTQ nhằm phản đối Tưởng Giới Thạch? Đó là vào ngày 23 tháng 6 năm 1946, Chu Ân Lai, Ngô Học Khiêm, Kiều Thạch và Tiền Kỳ Sâm lãnh đạo một cuộc diễu hành tại Thượng Hải, với hơn 5000 người từ khoảng 300 đơn vị và tổ chức. Nhưng cho đến tận bây giờ cũng không có sử liệu hay nhân chứng nào có thể chứng minh được Giang Trạch Dân, khi ấy với thân phận “Đảng viên ngầm”, đã tham gia diễu hành hay đảm nhận nhiệm vụ gì từ ĐCSTQ trong sự kiện này.
“Kinh nghiệm cách mạng” của Giang Trạch Dân đã được sáng tạo sao cho có lợi đối với ông ta nhất.
Quả là an bài của lịch sử, để cho tên hề có xuất thân chẳng mấy vẻ vang. Chính lịch sử đã để cho hắn vươn đến đỉnh cao quyền lực bằng sự lừa dối và ngụy tạo. Và như thế, đến lúc lịch sử đào thải hắn, cũng sẽ an bài để phơi bày tất cả các chi tiết xung quanh hắn và sự nghiệp của hắn, nhằm răn đe hậu nhân. Đó chính là Thiên Ý.
______________
Ghi chú:
[1] Một kiểu đồng minh chính trị tạm thời, có lợi cho mục tiêu của Trung Cộng. Trong lịch sử của mình, Trung Cộng nhiều lần sử dụng chiến thuật “thống chiến” tương tự.
[2] Khoảng 1 USD
[3] Chỉ 5 nhóm giai cấp bị Trung Cộng coi là hạ đẳng, đó là địa chủ, phú nông, phản động, phần tử xấu, và phái hữu. Đây là những nhóm mục tiêu tấn công của Trung Cộng trong những cuộc vận động chính trị.