Thứ Năm, 13 tháng 8, 2015

Tản bộ trong rừng hạnh: Hoa Đà và cây Thược Dược

http--www.pureinsight.org-pi-pi_images-2003-2-2-shaoyao
Tương truyền rằng danh y Hoa Đà vào thời Tam Quốc đã trồng các loại hoa và thảo dược ở sân trước và sân sau nhà ông. Mỗi một loại dược thảo, ông phải cẩn thận nếm thử một cách kỹ càng để tìm ra đặc tính về thuốc của nó trước khi kê toa cho bệnh nhân. Bởi vậy Hoa Đà chưa bao giờ sử dụng thuốc sai lầm.
Một hôm có người đem tặng Hoa Đà một cây thược dược, ông đem trồng nó ở đằng trước nhà. Sau khi nếm thử lá, thân, và hoa của thược dược, Hoa Đà cảm thấy nó cũng bình thường, nên cho rằng cây này không có một chút đặc tính nào của dược thảo. Vì vậy ông không dùng thược dược để chữa bệnh.
Một đêm khuya, Hoa Đà đang chong đèn đọc sách, đột nhiên ông nghe tiếng đàn bà đang khóc. Ông ngẩng đầu lên, nhìn thấy ở ngoài cửa sổ, một người đàn bà đẹp đẽ dưới ánh trăng mờ ảo, đang buồn bã ngồi khóc nơi đó.
Hoa Đà cảm thấy hơi ngạc nhiên, ông bước ra sân trước để tìm hiểu sự việc, nhưng không thấy một bóng người nào cả. Ở ngay chỗ ông đã nhìn thấy người đàn bà lúc nãy chỉ có một cây thược dược. Một ý tưởng chợt lóe lên trong đầu Hoa Đà ‘không chừng người đàn bà đó là cây thược dược’, nhưng ngay lập tức ông lại lắc đầu, tự cười diễu ý tưởng ngô nghê của mình. Hoa Đà bảo cây thược dược rằng : “Ngươi không có gì đặc biệt từ đầu đến chân. Làm sao ta có thể dùng ngươi làm thuốc chứ?”. Xong ông trở về phòng để tiếp tục đọc sách. Khi Hoa Đà vừa ngồi xuống, ông lại nghe tiếng đàn bà khóc. Khi ông bước ra ngoài cửa để tìm hiểu về người đàn bà lần nữa, thì cũng chẳng thấy ai, ngoại trừ cây thược dược ở đó. Tình trạng này cứ lặp đi lặp lại nhiều lần như vậy trong đêm hôm đó.
Quảng cáo
Cảm thấy kỳ lạ, Hoa Đà đánh thức vợ dậy, rồi kể tình tiết câu chuyện cho bà nghe. Vợ ông ngắm qua một lượt những bông hoa và dược thảo trong vườn, rồi nói; “ Mỗi một cây, mỗi một lá trong vườn này đều được ông biến chế thành thuốc lành, và ông đã dùng nó để cứu rất nhiều sinh mệnh, ngoại trừ cây thược dược này. Tôi tin là cây thược dược buồn rầu bởi vì ông bảo nó vô dụng, không được dùng làm dược thảo, trước khi ông tìm ra được đặc tính của nó”. Hoa Đà cười to, nói rằng: “Ta đã nếm thử cả trăm loại thảo mộc, và học hỏi dược tính của chúng kỹ càng rõ rệt. Bất cứ thứ nào có dược tính nên dùng thì ta đã sử dụng rồi, chưa hề sai lầm một thứ nào. Còn cây thược dược này, ta đã thử lá, thân, và hoa của nó nhiều lần trước khi ta đi đến quyết định cuối cùng là nó không thể được sắp vào hạng thuốc. Làm sao bà có thể nói ta nhìn lầm được?”. Vợ ông trả lời “Ông thông thường chỉ nếm thử những bộ phận ở trên mặt đất. Vậy ông đã thử rễ của nó chưa?” Hoa Đà không muốn nói nhiều nữa với vợ, ông cảm thấy mệt mỏi nên xoay người bỏ đi ngủ. Vợ ông cảm thấy chồng mình không muốn nghe theo lời khuyên của người ta như lúc trước, bà lo rằng nếu cứ như vậy thì Hoa Đà khó mà tránh khỏi sai lầm. Nhiều ngày sau, vợ của Hoa Đà bắt đầu có kinh nguyệt, máu huyết cứ chảy ra mạnh mẽ, hơn nữa bụng dưới lại đau quặn lên mãi. Không chờ Hoa Đà có bằng lòng hay không, vợ ông cứ ra đào vài nhánh rễ của cây thược dược. Bà rửa sạch nó rồi đem đun sôi, sau đó uống nước chắt ra từ đó. Không quá nửa ngày, cơn đau bụng đã giảm bớt rất nhiều, và máu huyết cũng chảy lại bình thường. Khi được vợ cho biết về chuyện này, Hoa Đà mới nhận ra rằng mình quả thật đã xét lầm cây thược dược. Ông cám ơn bà vợ đã chỉ cho ông biết rễ cây thược dược thật sự có vị thuốc tốt để cầm máu và giảm đau (gọi là chỉ huyết và chỉ thống).
Thược dược có nét đẹp đẽ. Cành hoa và bông hoa của nó trông rất đẹp và cũng vì vậy mà được mang danh là thược dược. ‘Thược dược’, tiếng Trung Hoa gọi là “Shao Yao” (sước ước), có nghĩa là ‘đẹp đẽ’.
Chú thích:
Rừng hạnh: Hán văn là “hạnh lâm”. Cây hạnh là một loại cây cao, cành dài, lá rộng hình tròn và đều mút nhọn. Hoa nở vào mùa Xuân nhưng chậm hơn hoa mai, sắc trắng ửng hồng trông giống hoa mai nhưng lớn hơn. Trái tròn khi chín sắc vàng hơi nhạt pha lẫn chua.
Đời Tam Quốc có Đổng Phụng ở Lô Sơn chuyên nghề làm thuốc. Mỗi khi chữa người nào lành bệnh, ông không lấy tiền, chỉ yêu cầu người đó trồng trong vườn từ một đến năm cây hạnh. Chẳng bao lâu trong vườn của Đổng Phụng cây hạnh mọc khắp, chẳng khác một khu rừng rậm, người đương thời gọi là rừng hạnh của tiên ông họ Đổng (Đổng tiên hạnh lâm). Nhân đó người ta dùng chữ ‘hạnh lâm’ để ca tụng những thầy thuốc giỏi. (Trích từ: “Từ điển Hán-Việt từ nguyên” của Bửu Kế)

Nếu bạn thấy bài viết hay, hãy chia sẻ nó với bạn bè
Bầu trời của lịch sử: Pháp duyên (Phần 1)


Tác giả: Thiện Dũng

[Chanhkien.org] Trong lịch sử vũ trụ dài đằng đẵng, không một sinh mệnh nào thoát khỏi sự câu thúc của Pháp lý “thành-trụ-hoại-diệt” của vũ trụ cũ. Các vị Thần tại cảnh giới cao thấy được sự biến dị và bại hoại theo tháng năm dài đằng đẵng của các nhân tố vật chất ở tầng thứ của các sinh mệnh tại cảnh giới thấp mà lo lắng bất an. Không chỉ một vị Đại Giác Giả vì để cứu vãn chúng sinh của mình, vì để chứng ngộ Phật Pháp kim cương bất hoại đã liều mình trước nguy hiểm, đầu thai đến thế giới thập ác, [với mục đích] tôi luyện Phật Pháp “tối chính” để mang về thiên quốc của mình. Ngờ đâu nhân thế hiểm ác, chính mình cũng bị hủy tại nơi con người mà không về được nữa. Các vị Thiên Chủ, Như Lai tại các tầng thứ khác nhau đang không ngừng quan sát, suy nghĩ cách giải quyết căn bản với kiếp nạn cuối cùng mà chúng sinh trong vũ trụ đang phải cùng nhau đối diện.
Bấy giờ Sư tôn vĩ đại xuất hiện tại tầng cao của vũ trụ. Trong quá trình chuyển sinh đi xuống tại các tầng, đã khai truyền “Đại Giác chi Pháp” bất khả tư nghị tại các tầng khác nhau trong đại khung vũ trụ. Tuyệt đại đa số các Phật, Đạo, Thần vẫn đang không ngừng quan sát sự biến hóa, phát triển của thế cuộc. Một số Giác Giả quyết tâm trợ giúp Sư tôn chuyển động Pháp Luân, Pháp chính càn khôn tại nhân gian. Sư tôn xuống đến tầng thứ thiên thể vũ trụ [nơi] sinh mệnh tôi đang tồn tại, giảng một lần Pháp cho tất cả Đại Pháp Vương, Thiên Chủ tại tầng thứ đó của tôi. Sau khi nghe Sư tôn giảng Pháp xong, tôi càng hiểu rõ thêm nội hàm thâm sâu của sự tồn tại của sinh mệnh, quyết tâm trợ Sư Chính Pháp. Thế là tôi và bốn vị Đại Pháp Vương trong cảnh giới đó của tôi cùng theo Sư tôn đi xuống nhân thế. Khi xuống đến một nơi gọi là thế giới thiên quốc Đại Quang Minh, bên bờ núi xanh khe suối, trông thấy người con trai của Pháp Vương Như Lai ở cảnh giới đó đang khổ tâm nghĩ cách giải cứu kiếp nạn cho chúng sinh. Tôi liền bay đến bên cạnh của Pháp Hoàng Tử và nói với anh: “Phật Chủ sẽ giáng hạ xuống phàm, chuyển Đại Pháp Luân, phổ độ chúng sinh. Đây là cơ hội tốt nhất, tại sao không theo Phật Chủ cùng nhau đi xuống thế gian tôi luyện, đúc nên Pháp kim cương bất hoại?” Pháp Hoàng Tử không chút lưỡng lự, nói: “Mong được thượng thần dẫn kiến, bái kiến Phật Chủ, để bày tỏ tâm ý”. Tôi nói: “Hãy theo tôi”. Tôi và Pháp Hoàng Tử đi đến thiên cung Đại Minh Uyển của Sư tôn.
Sư tôn ngồi trên đài sen cao, Pháp tướng thần thánh trang nghiêm vô tỷ. Khấu đầu xong, tôi nói: “Thưa Phật Chủ, hai người chúng con nguyện cùng Ngài đi xuống nhân thế, trợ giúp Ngài hồng dương Phật Pháp, cứu độ chúng sinh”. “Hai người phải biết nhân thế hiểm ác, con đường gian khổ?” Tôi nói: “Hai người chúng con nguyện dựa vào Pháp lực của Phật Chủ, không sợ sống chết. Để bày tỏ quyết tâm, xin dùng thệ ước làm chứng”. Sư tôn từ bi nhìn chúng tôi, vẫy tay một cái, trước mắt liền xuất hiện hai chiếc bàn, trên bàn có hai cuộn giấy giống như lụa màu vàng. Tôi viết lên, thệ ước: “Một, dùng chính niệm để chứng thực Phật Pháp vĩ đại. Hai, nếu như có tà ác phá hoại Đại Pháp, nhất định sẽ dùng tính mạng để duy hộ, bảo vệ Pháp điển vĩ đại trang nghiêm. Ba, nếu có làm trái thệ ước, tất sẽ gặp ác báo hình thần toàn diệt”. Trong số các đệ tử Đại Pháp, một số đồng tu ở các tầng thứ thiên quốc khác nhau đã từng ký thệ ước với Sư tôn. Nội dung cơ bản không khác nhau nhiều, chỉ là trọng điểm không giống nhau.
Sau khi từ biệt Sư tôn, ra khỏi Đại Minh Uyển, Pháp Hoàng Tử nói với tôi: “Nhân thế gian nan hiểm ác, năm tháng dài đằng đẵng, nếu có mê mất cũng mong thượng thần gia hộ cho”. Tôi nói: “Tôi chắc chắn sẽ duy hộ, không để mê mất. Nếu như tôi có mê mờ trong nhân thế, cũng hy vọng Pháp Hoàng Tử cứu tôi khỏi phút sinh tử”. Pháp Hoàng Tử nói: “Tôi chắc chắn cũng phải dùng sinh mệnh để duy hộ”.
Pháp Hoàng Tử sắp phải đi xuống, Như Lai và chúng Thần thân thiết nơi thiên quốc Đại Quang Minh lưu luyến không nỡ, lệ tuôn đầy mặt, sợ rằng lần ly biệt này sẽ không còn ngày gặp lại Pháp Hoàng Tử. Pháp Hoàng Tử nhìn chúng Thần kiên định mà nói: “Tôi nhất định sẽ trở về, đây là một hạt giống Thiên diệp cúc, khi cánh hoa màu vàng thứ 1.000 của Thiên diệp cúc khai nở, thì chính là thời khắc tôi sẽ trở về!” Nói xong bèn mang hạt giống Thiên diệp cúc để vào trong đất của thiên quốc, rồi kiên quyết quay lưng đi xuống. Hai người chúng tôi cùng chúng Thần theo Sư tôn tiếp tục đi xuống nhân thế. Quá trình từ thiên quốc đi xuống đến tam giới, dùng quan niệm thời gian của con người cũng là tháng năm cực kỳ dài đằng đẵng không cách nào hình dung được.
Khoảng 67 triệu năm trước, quỹ đạo vận hành của trái đất không phải như hiện nay, nó gần với mặt trời hơn, nhiệt độ trên trái đất hàng năm cao hơn, nhiệt độ bề mặt bình quân hàng năm là 45 độ C trở lên. Khi đó nhân loại đa số là sống trong các hang động hoặc trong lòng đất. Thềm lục địa cũng không phải hình dáng như hiện nay. Khi đó bắc bán cầu của trái đất có hai thềm lục địa lớn chủ yếu, là nơi cư ngụ của tộc người khổng lồ, dáng người trông khoảng 3 mét. Còn nam bán cầu có bốn thềm lục địa, đa số là do người tầm trung, người thấp bé cư ngụ, ở giữa nam bắc bán cầu còn có một số hòn đảo và quần đảo với hình thù to lớn. Do đó cự nhân, trung nhân, tiểu nhân sống xen kẽ với nhau.
Động, thực vật trên lục địa có sự khác biệt to lớn so với các động thực vật đang tồn tại trên trái đất hiện nay. Khoảng 67 triệu năm trước, trên lục địa, trên bầu trời, trong lòng biển của trái đất có đầy các loại hình quần thể khủng long. Thực vật trên lục địa chủ yếu là các loại cây lớn nhiệt đới và tảo. Trái đất vào lúc đó đã từng là khu vườn lạc thú của loài khủng long. Trong lòng đại dương cũng có mấy chủng nhân loại. Khi đó chủng tộc mỹ nhân ngư đã tồn tại ở trong lòng đại dương. Dưới biển còn có một loại nhân ngư, tính tình hung tàn. Có cả hai loại hệ thống hô hấp bằng phổi và bằng mang, bề mặt thân thể phủ chi chít vảy, màu xám thép. Hai con mắt ở phần đầu chiếm 1/3 khuôn mặt, phần mũi có 2 lỗ, miệng giống như của cá chép, ở trong trải đầy các răng sắc nhọn, dáng cao gần 2 mét. Có màng giữa các ngón tay, và chân. Loại nhân ngư này thường xuyên bò lên mặt đất để ăn thịt [chủng] người tầm trung và các loại khủng long ở lục địa. Vũ khí của chúng là xương sườn của các di hài động vật khổng lồ được mài sắc. Tại hai thềm lục địa lớn của bắc bán cầu, nơi chủng người khổng lồ tập trung sống chủ yếu, có 13 quốc gia vương quốc, khi đó tôi sống tại vương quốc tộc người khổng lồ ở vùng phía đông nhất. Vì [là nơi] thấy mặt trời sớm nhất, nên quốc gia này được gọi là Thái Dương chi quốc, có 13 loại tín ngưỡng tôn giáo trong 4 quốc gia. Do bất đồng tín ngường mà thường xuyên xảy ra chiến tranh.
Theo tập tục khi đó, ngay từ lúc còn nhỏ (mới bỏ sữa mẹ), tôi đã được Đại Tế tư của Thái Dương quốc lựa chọn, tiến hành học tập tôn giáo, tu luyện, đồng thời làm người kế tục của ông. Tác dụng của Đại Tế tư là quan sát thiên tượng, dự đoán thịnh suy của quốc gia, dự báo thiên tai tự nhiên, phụ tá quốc vương, lấy đức trị quốc, thừa tiếp Thiên ý, giáo hóa dân chúng, khôi phục nguyên khí. Trải qua 35 năm gian khổ độc tu trong tôn giáo, tôi tiến nhập vào trạng thái tiệm ngộ cao độ, chiếu theo Thiên ý, bắt đầu hồng dương Phật Pháp. Phật Pháp mà tôi chứng ngộ, hồng dương có tên là Pháp Đại Nhật Giác. Trên dưới người dân trong Thái Dương quốc, bao gồm cả quốc vương đều là tín đồ của Phật Pháp. Các chiến sĩ của bộ tộc thống nhất việc ăn ở, thống nhất kỹ năng luyện tập quân sự, cũng thống nhất tiến hành tu luyện tôn giáo, giống như là các võ tăng Thiếu Lâm thời xưa vậy, quyền thiền hợp nhất. Quốc vương của Thái Dương quốc, Hakan Achilles (đứa con của chúng Thần) thường xuyên mời tôi đến hoàng cung để cùng với các chúng đại thần nghe tôi tuyên giảng Phật Pháp, người quốc vương này chính là vị Pháp Hoàng Tử của thế giới Đại Quang Minh đã nói đến ở trên. Có một khoảng thời gian, tôi vào cung nhiều lần trông thấy Hakan Achilles bỏ bê triều chính, suốt ngày lấy rượu làm niềm vui, thấy vậy tôi đã nói với quốc vương Thái Dương quốc: “Thưa đại vương, những tháng ngày qua, ý chí của ngài sao lại chùng xuống. Ban đêm tôi quan sát thiên văn, thấy được quốc gia tà giáo Tư Mễ Đảo đang liên kết với các vương quốc lân cận có ý đồ đại quy mô xâm chiếm nước ta, không biết đại vương đã có dự tính gì chưa?” Hakan Achilles cười nói: “Nước chúng ta quốc phú dân cường, chiến sĩ quân đội dũng mãnh, người Tư Mễ Đảo sao dám đến tấn công, ta đã chán mệt với việc đánh nhau chém giết, nên an hưởng sự phồn hoa thịnh vượng”.
Tôi nói: “Hạnh phúc của một người đối với bản thân anh ta mà nói là rất quan trọng, tuy nhiên vẫn còn rất nhiều người đang bị tà giáo mê hoặc. Sự sống chết giống như một con cừu lạc treo trên dây, trời cao đã giao phó cho đại vương trách nhiệm lịch sử vĩ đại, đại vương cần phải cứu chúng sinh thiên hạ trước cơn nước sôi lửa bỏng. Giữa hạnh phúc cá nhân và lợi ích của chúng sinh thiên hạ đại vương cần phải có sự lựa chọn, hy vọng đại vương hãy lấy chúng sinh thiên hạ làm trọng, tu kỷ trị quốc, vì chúng sinh thiên hạ mà khai sáng cơ nghiệp thiên cổ, vĩnh viễn vui hưởng thái bình thịnh vượng”. Quốc vương Thái Dương mặt đầy nét hổ thẹn, nói: “Ta nhất định sẽ ghi nhớ lời nói của ông, vì để dân chúng thiên hạ hạnh phúc vĩnh cửu, ta sẽ cống hiến mọi thứ của ta”. Từ đó, quốc vương Thái Dương quốc Hakan Achilles nghiêm khắc với chính mình, chăm lo trị quốc, toàn lực tận tâm trị vì đất nước, trải qua cố gắng gian khổ đã đánh bại liên minh của tà ác, thống nhất được hai thềm lục địa của tộc người khổng lồ.
Sau khi tất cả chiến sự kết thúc, Hakan Achilles, vị vua của quốc gia người khổng lồ đứng trên đỉnh của một ngọn núi, ngón tay chỉ về phía đường chân trời xa xôi và nói với tôi: “Những vùng đất mà ta đã đi qua, tất cả quốc thổ của ta, đều là những nơi ông sẽ hồng dương Phật Pháp. Nếu như cần sự giúp đỡ, ta sẽ toàn tâm tận sức. Ta trao quyền cho ông, hãy giáo hóa muôn dân của ta nhé!” Tôi nói: “Thưa đại vương, tôi nhất định không phụ sứ mệnh….” Bảy nghìn năm sau, Phật Pháp mà tôi hồng truyền đi vào thời kỳ mạt pháp.
Một buổi sáng yên bình, khi con người mới thức dậy sau giấc ngủ say, giữa bầu trời con thằn lằn bay đang vươn đôi cánh dài gần 10 mét kèm theo tiếng kêu chói tai nhằm về phía con mồi. Trong khu rừng lá rộng nhiệt đới một con kiếm long đang dẫn theo con nhỏ của nó uống nước bên dòng nước yên tĩnh, không xa đó một con khủng long bạo chúa háu ăn đang nhăm nhe mẹ con của kiếm long. Bất chợt từ nơi xa truyền đến một loại âm thanh đặc biệt, âm vang, tất cả đám khủng long trong rừng đều vểnh tai lên hướng về nơi mà âm thanh truyền đến, mọi người sợ hãi ngẩng đầu nhìn về nơi góc trời; một tiểu hành tinh với đường kính 25 km (bằng với một thành phố nhỏ) mang theo âm thanh ầm ầm dữ dội do sự ma sát với không khí phát ra, đang đâm vào trái đất với tốc độ 30 km/giây. Không lâu sau truyền đến một tiếng nổ lớn kinh thiên động địa, toàn bộ trái đất đều đang rung chuyển. Trái đất bị đâm lệch khỏi quỹ đạo vốn có, bay xa ra khỏi mặt trời. Sau khi tiểu hành tinh này đâm trúng trái đất, cùng với sự va đập của tiểu hành tinh, mấy thềm lục địa lập tức chìm xuống đáy biển. Sau va chạm các mảnh vụn của đá, bụi, cộng thêm nước biển bị khí hóa đã hình thành nên một đám mây hình nấm khổng lồ, không ngừng, không ngừng dâng cao bao phủ cả bề mặt của trái đất, che lấp ánh mặt trời, trái đất rơi vào trong đêm tối. Đồng thời cơn sóng thần khổng lồ cao đến 5 km, cuốn quanh cả trái đất, tiếp theo đó là các trận mưa lớn không ngớt liên tục cả mấy ngày. Đáng sợ hơn nữa chính là do sự va chạm của tiểu hành tinh đưa đến đại biến động của lớp vỏ trái đất và thềm lục địa. Một số hòn đảo lục địa chìm xuống đại dương. Một số lục địa dưới biển vụt khỏi mặt biển hướng thẳng lên trời theo lực va chạm của tiểu hành tinh. Đại dương trước đây biến thành lục địa, còn lục địa trước đây cùng tất cả sinh mệnh, văn minh trên bề mặt của nó chìm sâu xuống dưới biển. Do thềm lục địa và vỏ trái đất không ổn định, không ngừng dịch chuyển, sự va chạm đã đưa đến vô số sự phun trào liên tục của các núi lửa lớn nhỏ, trái đất khói bụi cuồn cuộn cả ngày, tay giơ ra không thấy được 5 ngón. Tro núi lửa dày đặc bốc lên bao phủ cả bề mặt trái đất, tình trạng này kéo dài 32 năm. Do trên trái đất không có đủ ánh sáng mặt trời, các động thực vật gần như là chết hết, loài khủng long cũng do đó mà dần dần tuyệt chủng, trái đất bước vào thời kỳ băng hà. Và như vậy nhân loại của thời kỳ này đi đến sự kết thúc. Những người còn sống sót bước vào một thời kỳ văn minh tiếp theo.
Trong quá trình đại biến động của thềm lục địa, một ngọn núi nằm kề bờ biển ở dưới đáy biển đã nhô lên khỏi mặt biển hơn 8.000 mét, vùng bờ biển đó kết hợp với lục địa vươn cao lên mấy ngàn mét so với mực nước biển. Nhân loại ngày nay của chúng ta gọi ngọn núi ấy là núi Chomolungma, còn cao nguyên do vùng bờ biển ấy hình thành gọi là cao nguyên Thanh Tạng.
(còn tiếp…)
Dịch từ:
http://www.zhengjian.org/node/60179

Ngày đăng: 02-03-2013
Bầu trời của lịch sử: Pháp duyên (Phần 2)


Tác giả: Thiện Dũng

[Chanhkien.org] Thời gian trôi nhanh, thế sự chuyển dời, trăm ngàn năm qua, con người thế gian không có gì thay đổi, trong sự tranh danh đoạt lợi chỉ biết ái tình, trong lục đạo luân hồi, chấp mê tạo nghiệp, nào biết sợ sẽ rớt sâu xuống địa ngục đâu.
Vào triều Đường, tôi chuyển sinh đến Tây Tạng, khi chuyển sinh đến Hồng giáo Tạng mật để tu luyện đời thứ hai, một lần nọ [tôi] cùng các lạt-ma đi đến phía nam Tây Tạng để tham gia một buổi Pháp hội lớn. Dọc đường đi gặp phải một người điên đang ở bên đường kêu hò ầm ĩ về phía chúng tôi. Trông mặt anh ta có vẻ quen quen. Tôi bèn dừng ngựa lại, khai mở công năng túc mệnh thông nhìn vào người điên ấy. Sau khi xem xong, mọi nhân duyên trước đây của tôi và anh ta [được] tận giải. Tôi xuống ngựa đi đến cạnh anh, người điên nhìn tôi một cách mơ hồ, tôi dùng Phật Pháp thần thông đả khai một bộ phận đã bị khóa kín của anh, rồi hỏi: “Anh, có còn nhớ tôi không?” Đôi mắt mơ hồ của người điên dần dần trở nên sáng lên, từ đôi mắt ấy tuôn ra hai hàng lệ, [anh] nắm lấy tay tôi nói: “Hãy cứu tôi!” Tôi trịnh trọng gật đầu một cái, căn dặn các tiểu lạt-ma bên cạnh dẫn người điên về tu viện Hồng giáo.
Thì ra người điên này chính là Pháp Hoàng Tử, người đã cùng tôi ký nguyện ước Chính Pháp với Sư tôn tại thiên quốc, là quốc vương Thái Dương quốc trước đây. Anh chuyển sinh làm tướng quân triều Tùy, Vũ Văn Thành Đô, vào những năm cuối triều Tùy do danh lợi mà tạo phải tội nghiệp lớn, kiếp này chịu quả báo như thế. Do vào triều Tùy anh đã tạo nghiệp to lớn không thể thọ Pháp tu luyện, chỉ có thể khổ hạnh để tiêu đi tội nghiệp trước. Một đời tu không thành được, phải tu tám đời mới có thể hoàn toàn ngộ lại được bản tính cảnh giới Như Lai.
Tôi căn dặn các lạt-ma giao những việc nặng nhọc nhất, dơ bẩn nhất ở trong tu viện cho người điên làm. Mỗi ngày chỉ cho ăn no, nằm ngủ trong chuồng súc vật, cứ như thế trong 7 năm. Một hôm, tôi hỏi người điên: “Này phong tử, anh có vui không?” Người điên trả lời: “Xin thượng sư truyền Pháp độ tôi đến Pháp giới bỉ ngạn”. Tôi nói: “Tội nghiệp của anh rất nặng, một đời không tu thành được”. Người điên nói: “Xin nghe theo mọi điều dạy bảo của thượng sư”. Tôi thấy Phật tính anh ta hiển hiện, cơ duyên đã thành thục, bèn quán đỉnh, truyền Pháp cho anh, chính thức truyền dạy tu luyện Hồng giáo của Tạng mật cho anh. Sau khi truyền thụ một số Pháp lý tu luyện cơ bản của Tạng mật, [tôi] đưa anh ta vào một sơn động bế quan khổ tu, tụng kinh, hối lỗi nghiệp tội. 13 năm sau, tôi lại truyền dạy phương pháp tu định Hồng giáo Mật tông cho Pháp Hoàng Tử—[gọi là] Chuyết hỏa định. 30 năm sau, có một lần tôi đả tọa tu định, nhìn thấy Pháp Hoàng Tử ác nghiệp đầy người, không lâu nữa sẽ rời khỏi thế gian. Vài ngày sau, Pháp Hoàng Tử xuất hiện bệnh trạng nghiêm trọng, trong khi đi ăn xin ở dưới núi, đã gặp phải cướp rồi vô tình mất mạng.
Tiếp đó, Pháp Hoàng Tử chuyển sinh đến một gia đình dân du mục ở Tây Tạng, đợi đến khi Pháp Hoàng Tử 7 tuổi, tôi đón anh về tu viện Hồng giáo để tiếp tục tu luyện. Do tôi chỉ định một vị đại lạt-ma dạy chữ cho anh, học tập kinh điển của Tạng mật, tuy nhiên các kiếp sống trước đây của anh đã tạo nghiệp to lớn, sau khi thành niên rồi vẫn khổ tu ở trong sơn động, cả đời khổ tu cho đến khi hết thọ mệnh. Đời thứ ba Pháp Hoàng Tử chuyển sinh để tiếp tục tu luyện, và vẫn như thế, khổ tu ở trong sơn động, thuận theo thọ mệnh trời định. Tôi cùng các đại lạt-ma dùng Phật Pháp thần thông để quan trắc sự nghiệp cứu độ chúng sinh trong tương lai ở Tạng địa, thấy được tương lai 33 năm sau sẽ có dị tộc tà giáo xâm lược khu vực Tây Tạng, làm hại chúng sinh. Pháp Hoàng Tử chuyển sinh đến làm con trưởng trong một gia đình hoàng tộc ở Thổ Phồn, do một vị đại lạt-ma phụ trách truyền dạy cho anh công phu bộ hạ, mã thượng, học tập phương pháp bài binh bố trận, đồng thời cũng học tập một số kinh điển Tạng mật. 33 năm sau, năm Mộc Thử của lịch Tây Tạng, Pháp Hoàng Tử đánh bại kẻ địch xâm lược dị tộc, cuộc chiến này đã mang lại 480 năm thái bình thịnh vượng cho khu vực Tây Tạng. Vài năm sau Pháp Hoàng Tử mắc trọng bệnh, rời khỏi nhân thế, đại lạt-ma dẫn đạo vong linh của anh chuyển thế, tiếp tục lịch trình tu luyện.
Dưới đất thềm lục địa trái đất nơi chúng ta sinh sống cũng có nhân loại, chỉ là hình dáng lớn nhỏ có sự khác biệt với nhân loại chúng ta. Bề mặt lục địa dưới chân chúng ta có [chằng chịt như mạng nhện] các đường thông đạo xuống lòng đất ở bên dưới, các lạt-ma Tây Tạng ở các thời đại trước nắm rõ được cánh cửa mạch thông đến thế giới dưới lòng đất tại núi Himalaya. Vào thời cổ đại những người dưới lòng đất thường họp mặt định kỳ với các lạt-ma tại miệng thông đạo đưa đến thế giới lòng đất ở giữa các rặng núi, đôi khi những người dưới lòng đất sẽ xin thức ăn từ các lạt-ma. Người lòng đất đặc biệt thích ăn thịt bò y-ắc (giống bò ở vùng Thanh Hải-Tây Tạng); để báo đáp lại, những người dưới lòng đất sẽ tặng các lạt-ma một túi vàng thỏi quặng, có khi nặng đến trên 100 cân (1 cân là 0,5 kg); đây là những thứ họ phát hiện được ở dưới đất, vàng thỏi đối với họ mà nói là không có ý nghĩa gì cả. Đa số những người dưới lòng đất sống dựa trên thị tộc duy trì mối quan hệ huyết duyên. Vào thời cận đại thì loại tiếp xúc này hầu như đã rất ít.
Dưới lòng đất có hồ nước, có dòng sông, các động vật máu nóng cổ xưa, có các thực vật lòng đất… Trên các truyền thông phim ảnh có một số các hồ nước dòng sông của khu vực con người xuất hiện quái thú. Đại đa số là bởi vì những hồ nước, dòng sông này tương thông với các hồ nước dòng sông ở dưới lòng đất. Sẽ có quái thú dưới lòng đất thông qua đường thủy tương thông để lên trên bề mặt, có khi vừa lên đến thì bị con người phát hiện.
Rất nhiều năm nữa lại trôi qua, trải qua bảy đời khổ tu trong Hồng giáo Tạng mật, tôi chuẩn bị viên mãn. Tôi triệu tập tất cả tín đồ, cư sĩ, lạt-ma trong Hồng giáo lại, tổ chức lần Pháp hội cuối cùng của tôi trong kiếp sống này.
Trước lúc mọi người đến, tôi cho triệu Pháp Hoàng Tử đến trước mặt rồi nói: “Trong tương lai, Phật Chủ Di Lặc vì lợi ích của chúng sinh vũ trụ sẽ chuyển sinh đến đất Hán, chuyển Đại Pháp Luân, phổ độ chúng sinh. Đến lúc đó nhân thế sẽ xuất hiện ma vương dẫn theo con cháu đội lốt người để làm loạn nhân gian, nguy hại chúng sinh. Anh và tôi là Giác Giả chính giác của Phật Pháp, nên trợ giúp Phật Chủ Di Lặc chuyển Đại Pháp Luân, Pháp chính càn khôn tại nhân gian. Dù có phải hy sinh sinh mệnh, cũng quyết không chùn bước. Anh còn phải khổ tu hai đời nữa mới có thể viên mãn được. Tôi đã hoàn thành lịch trình tu luyện Hồng giáo, không lâu nữa sẽ chuyển sinh đến đất Hán để làm một số chuẩn bị cho đại sự mai sau”. Pháp Hoàng Tử song thủ hợp thập nói: “Sẽ không phụ kỳ vọng của tôn giả”.
Sau đó Pháp Hoàng Tử lại trải qua hai đời khổ tu, tính tổng cộng là tám đời, hao tốn 538 năm để tu luyện viên mãn trong Hồng giáo.
Tôi cùng vị đồng tu này, chỉ riêng thời gian Pháp duyên thế gian đã bước qua trăm ngàn năm rồi. Tất cả các đệ tử Chính Pháp của chúng ta đã cùng nhau trải qua vô số tháng năm gian khổ, sinh tử cùng nhau, chưa từng từ bỏ nhau. Có lẽ với vô số các khảo nghiệm sinh tử mà chúng ta cùng đi qua đó, một số đồng tu ở trong mê đã phai nhòa đi, bị lịch sử phong bế trong ký ức xa xôi thăm thẳm, tuy nhiên những ký ức này sẽ không thật sự mất đi. Tôi trân trọng Pháp duyên trân quý vô tỷ với các đồng tu, chúng ta cần phải giúp đỡ các đồng tu đã mê mờ trong nhân thế. Họ đã từng cùng chúng ta trải qua vô số các tháng năm gian khổ, sinh tử có nhau. Chúng ta không thể bỏ rơi họ trong thời khắc lịch sử như thế này. Chúng ta hãy cùng tay trong tay trở về nơi thiên quốc quê nhà tốt đẹp vô tỷ đó. Mãi mãi sống trong thế giới huy hoàng thần thánh. Mãi mãi.
(Hết)
Dịch từ:
http://www.zhengjian.org/node/60180

Ngày đăng: 09-03-2013

”Người tốt như anh thật hiếm thấy trong xã hội”


Bài viết của một học viên Pháp Luân Đại Pháp ở Trung Quốc
[MINH HUỆ 18-06-2015] Mặc dù cuộc bức hại và những thông tin sai lệch của chế độ Trung Cộng chống lại Pháp Luân Đại Pháp vẫn tiếp diễn, tất cả mọi người trong nhà máy đều biết tôi là một người chính trực và là một học viên Pháp Luân Đại Pháp đáng kính.
Tôi là một nhân viên thu mua, chịu trách nhiệm mua sắm nguyên vật liệu đầu vào trong suốt 10 năm qua. Vị trí của tôi đòi hỏi phải kiểm tra nghiêm ngặt hàng trăm vật liệu khác nhau, từ những mặt hàng lớn như thép, máy móc, đến những thứ nhỏ như khăn tắm xà phòng. Biết rằng tôi tuân thủ các nguyên lý Chân-Thiện-Nhẫn của Pháp Luân Đại Pháp, lãnh đạo tin tưởng giao tôi vị trí này. Họ đánh giá cao tinh thần trách nhiệm của tôi vì tôi luôn luôn làm những gì tốt nhất cho công ty.
Đó thực sự là một công việc khá khó khăn. Ở Trung Quốc ngày nay, hối lộ, mặc dù bất hợp pháp, nhưng là một thực trạng phổ biến và được mong đợi. Do nhất định không đi theo trào lưu thoái hóa này, một số người khó chịu với tôi.
Một số công ty cố gắng hối lộ để bán cho công ty tôi sản phẩm kém chất lượng. Tôi không bao giờ nhận hối lộ, từ chối hợp tác với họ và các sản phẩm không đạt chuẩn của họ.
Chỉ ba ngày sau khi đảm nhận vị trí này, giám đốc điều hành của một nhà cung cấp lớn mang một món quà đắt tiền đến nhà tôi. Tôi vui vẻ chào đón, nhưng lịch sự từ chối món quà của ông, giải thích rằng đó là vì tôi tuân theo các tiêu chuẩn của Pháp Luân Đại Pháp. Bằng cách từ chối quà, ông biết rằng tôi không thể bị mua chuộc. Tôi nói với ông rằng cách tốt nhất để xây dựng một mối quan hệ tốt với tôi là tập trung vào chất lượng sản phẩm.
Ban đầu vợ tôi phàn nàn, nói rằng tôi sẽ không được lòng nếu tôi không nhận hối lộ. Tôi nói với cô ấy rằng học viên Pháp Luân Đại Pháp phải chính trực.
Vì tôi là nhân viên thu mua lâu năm, nhiều nhà cung cấp biết rằng, để cố gắng bán được hàng, các sản phẩm của họ cần phải qua tôi kiểm tra. Nhiều nhà cung cấp sẵn sàng hối lộ tôi bằng mọi cách, chẳng hạn như cố gắng cho tôi thẻ quà tặng đắt tiền, đi nghỉ lễ, tour du lịch, và mời đi ăn. Thậm chí họ cố gắng hối lộ lãnh đạo tôi. Tôi chỉ đơn giản nói rằng họ không cần phải tặng quà cho tôi, vì tôi là một học viên Pháp Luân Đại Pháp, và đối xử với mọi người rất công bằng.
Kiểm tra chất lượng tốt không tồn tại trong nhà máy chúng tôi trước khi tôi nhận vị trí này. Thông qua nghiên cứu kỹ lưỡng, tôi biên soạn, chỉnh lý, và chuẩn hóa hơn 100 quy trình khác nhau để tiến hành phân tích chất lượng sản phẩm. Được trang bị các tiêu chuẩn phù hợp để đánh giá chất lượng sản phẩm, tôi đối xử công bằng với tất cả các nhà cung cấp và làm công việc của mình thật chính.
Nhiều nhà cung cấp thường nói với tôi rằng, “Một người tốt như anh thật hiếm thấy trong xã hội.” Một số nói với tôi rằng, mặc dù sản phẩm của họ đạt chất lượng rất cao, họ vẫn phải mua những món quà đắt tiền cho người quản lý và cán bộ thu mua của các nhà máy khác mà họ tiếp cận. Nếu họ không làm vậy, những nhà máy này gây phiền hà cho họ về những vấn đề lặt vặt về các sản phẩm của họ và gây khó dễ – cho đến khi họ nhận được một món quà đủ đắt tiền.
Tôi nói với các nhà cung cấp về cuộc bức hại Pháp Luân Đại Pháp và chế độ ĐCSTQ cố gắng lăng mạ Pháp Luân Đại Pháp thông qua một chiến dịch thông tin sai lạc về các bản tin phỉ báng. Đa số các nhà cung cấp đã thoái đảng sau khi trở nên minh bạch về việc chế độ ĐCSTQ tàn ác thế nào.
Tôi đã từng từ chối một lô hàng thép trị giá hơn một triệu nhân dân tệ (khoảng 160.000 USD). Ông chủ của công ty thép này xin địa chỉ của tôi. Biết rằng ông sẽ cố gắng hối lộ tôi một số món quà đắt tiền để được tôi ký một hợp đồng với ông ấy, tôi lịch sự từ chối yêu cầu của ông.
Ngày hôm sau, tôi phát hiện ra rằng ông đã nạp thẻ 500 nhân dân tệ (khoảng 80 USD) vào điện thoại di động cho tôi. Tôi gặp ông ngay lập tức và trả lại tiền. Nó cũng là một cơ hội đối với tôi để giảng chân tướng về cuộc bức hại cho ông.
Trung bình, tôi tiết kiệm được hơn 40.000 nhân dân tệ (khoảng 6.500 USD) mỗi tháng cho nhà máy của tôi. Một trong những nhà quản lý điều hành từng nói với tôi, “Anh là người trung thực nhất trong nhà máy.” Trong một cuộc họp, một giám đốc điều hành khác nói với tất cả mọi người có mặt: “Sẽ rất tốt nếu tất cả các anh chị có thể hành xử như anh ấy (nói về tôi).”
Gần đây, tôi đã bắt đầu bắt xe buýt đưa đón nhân viên đi làm. Bằng cách đó tôi giảng chân tướng về cuộc bức hại cho tất cả các đồng nghiệp.
Pháp Luân Đại Pháp là vô cùng thù thắng, và tôi cảm thấy rất may mắn khi trở thành một đệ tử Pháp Luân Đại Pháp!

Đăng ngày 12-08-2015; Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.

Trở về từ cõi chết


Bài viết của một học viên Pháp Luân Công ở Trung Quốc
[MINH HUỆ 23-02-2015] Tôi năm nay đã hơn 70 tuổi. Vì tôi trông rất khỏe mạnh, nên nhiều người nghĩ tôi chỉ khoảng 50 tuổi. Nhưng thực tế, tôi đã từng mắc rất nhiều bệnh tật trong một thời gian dài. Sức khỏe của tôi đã chuyển biến kể từ khi bắt đầu tu luyện Pháp Luân Công vào năm 1997. Tôi muốn chia sẻ câu chuyện của mình.
Trở về từ địa ngục
Phần lớn cuộc đời mình, tôi thường cảm thấy đó là một cuộc đấu tranh chỉ để sống sót và tôi đã phải chiến đấu để ngăn chặn cái chết. Thời niên thiếu, tôi có những cơn đau đầu nghiêm trọng. Mỗi lần bị đau, tôi nằm quằn quại trên sàn nhà và cào vào tường. Sau mỗi lần như vậy, những lớp vôi vữa rụng khắp sàn nhà.
Tôi kết hôn khi còn trẻ, và vợ chồng tôi đã có hai đứa con.
Khi 20 tuổi, tôi xuất hiện bệnh tim, năm 30 tuổi thì mắc chứng động kinh. Suy nghĩ của tôi thường lẫn lộn, và đôi khi tôi không thể tìm thấy đường về nhà. Tôi đã thử chữa trị bằng cả Tây y, Trung y và các phương pháp dân gian. Tôi cũng đi lễ Phật và cầu Đạo. Nhưng đều không có gì tiến triển.
Năm 26 tuổi, tôi tự làm bỏng mình nghiêm trọng khi đang nấu mì cho gia đình. Tôi đã nhúng vội hai bàn tay vào nước lạnh và ngất đi. Tôi nhìn thấy linh hồn mình rời khỏi cơ thể và đi đến một cây cầu.
Nhiều người trên cây cầu đang đi bộ đến một tòa nhà trông giống một ngôi đền. Theo sau đám đông, tôi đi về phía cây cầu, nhưng một linh hồn đã ngăn tôi lại. Ông ấy nói với tôi rằng tòa nhà đấy là âm tào địa phủ và những người đó đang đi gặp Diêm Vương.
Ông nói rằng cuộc sống của tôi vẫn chưa kết thúc và yêu cầu tôi quay lại. Linh hồn tôi trở về cơ thể của mình. Khi tỉnh lại, tôi thấy người nhà và hàng xóm tụ tập xung quanh tôi và đang khóc. Họ đều nghĩ rằng tôi đã chết.
Kể từ đó, tôi phải mang thuốc trợ tim bên mình mọi lúc mọi nơi. Đôi khi tôi chán nản tới mức muốn kết thúc cuộc sống của mình, và đôi khi tôi ước rằng có một vị chân Phật sẽ cứu độ mình. Nhưng vị chân Phật đó ở đâu đây?
Pháp Luân Công đã cứu tôi
Vào năm 1997, một người bạn nói với tôi về Pháp Luân Công. Anh ấy nói rằng Pháp Luân Công có khả năng chữa bệnh một cách thần kỳ và có rất nhiều người đã chứng kiến điều đó. Tôi hỏi anh ấy liệu có điểm luyện công nào có thể nhận tôi không, vì tôi quá ốm yếu. Anh nói: “Đừng lo lắng về điều đó. Miễn là chị tinh tấn tu luyện, chị sẽ phục hồi nhanh thôi.”
Cùng đêm hôm đó, tôi đã đến điểm luyện công địa phương, mang theo thuốc trợ tim bên mình. Tôi nghe các học viên đọc Chuyển Pháp Luân – cuốn sách chính của Pháp Luân Công – và nhìn họ luyện các bài công pháp. Tôi đã lắng nghe một hồi lâu.
Tất cả những gì tôi nhớ được là:
“Đã làm người luyện công thì trước hết phải làm được ‘đả bất hoàn thủ, mạ bất hoàn khẩu’, phải Nhẫn.” (Bài giảng thứ chínChuyển Pháp Luân)
Tôi cũng nhớ lại rằng bệnh tật chính là do làm điều xấu trong quá khứ, nên dẫn đến nghiệp báo và đau khổ để hoàn trả lại món nợ nghiệp lực đó.
Ngày hôm sau, một người bạn của con trai út tôi đến chơi. Cậu ấy say rượu và vô tình đánh vào ngực tôi rất mạnh. Sự đau đớn khiến tôi gần ngất đi. Hai con trai tôi đã rất tức giận và muốn đánh cậu ấy một trận. Tôi đã ngăn chúng lại, bởi vì tôi nhớ lại những gì mình đã học được từ cuốn sách Chuyển Pháp Luân ngày hôm trước.
Tôi nghĩ: “Có lẽ kiếp trước mình đã làm gì xấu với người thanh niên này. Bây giờ mình đang trả nghiệp đó.” Tôi nói với các con trai mình: “Không sao. Mẹ sẽ ổn nhanh thôi. Hãy để cậu ấy đi.” Thật ngạc nhiên, bệnh tim của tôi đã biến mất. Sau sự việc này, tôi không có bất kỳ triệu chứng [bệnh tim] nào nữa – Sư phụ Lý Hồng Chí đã gỡ bỏ nghiệp lực và chữa lành bệnh cho tôi.
Các vấn đề sức khỏe khác mà đã làm phiền tôi hàng thập kỷ, đều biến mất trong vòng một tháng sau khi tôi bắt đầu tu luyện Pháp Luân Công. Tôi cảm thấy rằng cuối cùng mình đã tìm thấy vị chân Phật và Phật Pháp chân chính.
Tôi không cần uống bất kỳ loại thuốc nào nữa. Tôi đã bỏ tất cả thuốc của mình vào một cái hộp lớn, cho nó vào giỏ hàng và mang đến sông đổ hết đi. Bạn bè của tôi đều không thể hiểu được: “Đó đều là những loại thuốc đắt tiền. Tại sao cậu lại đổ tất cả chúng đi?” Tôi nói: “Tôi đang tu luyện Pháp Luân Công, và tất cả những bệnh tật của tôi đã biến mất, tôi không cần đến chúng nữa.”
Nhiều điều kỳ diệu khác đã xảy ra với tôi. Dưới đây là một ví dụ khác. Một buổi tối, khi tôi đang đọc cuốn Chuyển Pháp Luân ở nhà, một học viên khác đến và hỏi: “Tại sao chị không bật đèn lên?”
“Tôi đang đọc Chuyển Pháp Luân mà.”
“Sao ở trong bóng tối mà chị đọc được sách vậy?”
Tôi trả lời: “Mỗi chữ đều tỏa sáng. Không phải cuốn sách của bạn cũng như thế sao?”
Tôi nhận ra rằng không phải cuốn sách của tất cả mọi người đều như thế. Người học viên kia nói rằng đó là Sư phụ Lý Hồng Chí đang khích lệ tôi.
“Mẹ tôi tu luyện Pháp Luân Công”
Chứng kiến những phép lạ, mọi người trong làng tôi đều rất ngạc nhiên. Họ nói: “Bây giờ, chị là một người hoàn toàn khác. Trông thật khỏe mạnh và tràn đầy năng lượng.” Tôi nói với họ rằng Pháp Luân Công đã cứu tôi. Nhiều người trong số họ trong một thời gian dài thấy khó tin lời tôi. Tôi đã khuyến khích họ hãy thử trải nghiệm, và một số người cao tuổi bị bệnh nhưng không có tiền để đi khám chữa cũng bắt đầu tu luyện Pháp Luân Công với tôi. Sau đó, một vài người người trẻ tuổi cũng tham gia.
Khi số lượng học viên lớn dần, chúng tôi đã mở ba điểm luyện công ở trong làng mình. Khi cuộc bức hại bắt đầu, chúng tôi không thể tập trung tại các điểm luyện công để luyện cùng nhau trong khoảng thời gian, nhưng chúng tôi đã khởi động lại sau đó. Chúng tôi đọc sách và luyện công thường xuyên suốt 15 năm qua.
Con trai tôi là trưởng thôn. Tôi đã nói với cháu ngay khi cuộc đàn áp bắt đầu: “Con trai, nếu không nhờ Pháp Luân Công, mẹ có lẽ đã qua đời mấy năm trước rồi. Sư phụ Lý Hồng Chí đã cứu mẹ. Dù bất kể áp lực lớn thế nào, con không nên tham gia vào cuộc bức hại. Thay vào đó, con nên cố gắng hết sức trong vị trí của mình để bảo vệ các học viên Pháp Luân Công.”
Tôi cũng nói với cháu rằng cháu sẽ bị trời phạt nếu như tham gia vào việc bức hại các học viên Pháp Luân Công. Tôi nói: “Dù có bất kể điều gì xảy ra, mẹ vẫn sẽ tu luyện Pháp Luân Công.”
Con trai tôi hiểu Pháp Luân Công thực sự là gì – không giống như những tuyên truyền do chế độ cộng sản tạo ra – và cháu đã chứng kiến tôi hoàn toàn bình phục từ căn bệnh động kinh và bệnh tim như thế nào. Cháu thường che giấu cho tôi mỗi khi cảnh sát đến làng tìm kiếm các học viên Pháp Luân Công.
Cháu cũng thường xuyên giúp tôi thông báo cho các học viên khác để họ có thể trốn thoát khi cảnh sát đến. Nhưng đôi khi cảnh sát đến mà không thông báo trước cho cán bộ thôn, vì vậy tôi đã từng bị bắt, giam giữ và bỏ tù trong các trung tâm tẩy não hơn 30 lần kể từ năm 1999.
Do vị trí của con trai tôi, các quan chức chính quyền huyện thường xuyên ghé thăm nhà chúng tôi. Họ luôn luôn ngạc nhiên khi phát hiện ra tuổi thật của tôi.
Một người hỏi con trai tôi: “Mẹ của anh 50 tuổi phải không?” “Không, bà ấy 70 tuổi rồi.” Họ không thể tin được điều đó. Tôi nói: “Ngay cả con trai của tôi cũng trên 50 tuổi rồi. Tất nhiên tôi đã 70 tuổi chứ.”
Họ rất ngạc nhiên. Một viên chức nói rằng mẹ của anh ta mới chỉ ngoài 40 tuổi nhưng phải thường xuyên đến bệnh viện. Một người khác nói rằng cha của anh ta chưa đến 60 tuổi nhưng đã bị đột quỵ, và họ đã phải thuê một y tá riêng để chăm sóc cho ông ấy.
Họ nói: “Bác rất may mắn. Con trai của bác cũng rất may mắn.” Con trai tôi nói với họ: “Đó là nhờ mẹ tôi tu luyện Pháp Luân Công.”
Tôi nhân cơ hội đó để nói với họ chân tướng về Pháp Luân Công, sự tuyệt vời của Pháp Luân Công như thế nào, và để họ không tham gia vào cuộc bức hại. Họ nói rằng họ sẽ không tham gia. Khi rời đi, một vài người đã lấy các tờ rơi Pháp Luân Công, và nhiều người nói rằng họ muốn tìm hiểu thêm về môn tu luyện.
* * *
Sư phụ Lý Hồng Chí và Pháp Luân Công đã cứu độ tôi. Vì vậy tôi cảm thấy có trách nhiệm và rất vinh dự khi nói với công chúng về Pháp Luân Công và Sư phụ; tôi phải nói ra chân tướng để vạch trần chiến dịch bôi nhọ của Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Bất chấp nguy hiểm, tôi và các học viên khác vẫn thường đi ra ngoài để phân phát các tài liệu Pháp Luân Công. Trong 15 năm qua, chúng tôi đã đến thăm nhiều thôn làng, các thị trấn gần đó và phân phát tài liệu cho hàng nghìn hộ gia đình. Nhiều người đã biết được chân tướng về cuộc đàn áp và thay đổi thái độ đối với Pháp Luân Công.
Chúng tôi sẽ vẫn tiếp tục nỗ lực của mình để giúp nhiều người hơn nữa biết Pháp Luân Công tuyệt vời như thế nào. Chúng tôi sẽ không dừng lại cho đến khi cuộc đàn áp kết thúc.

Đăng ngày 17-06-2015. Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.